Chủ Nhật, 27 tháng 6, 2010



Quyền Lực thuộc về cộng đồng Bloger

Với con số ước tính khoảng 70 triệu bloger, các nhà lãnh đạo Trung Quốc giờ đây đang chịu một áp lực dai dẳng đòi hỏi họ phải quả quyết từ một cộng đồng blog theo chủ nghĩa dân tuý, chủ nghĩa dân tộc mà trong bối cảnh thiếu vắng bầu cử dân chủ, đã trở thành tiếng nói của người dân trên thực tế…

Thomas L. Friedman, The New York Times

Bắc Kinh – Khoảnh khắc này là khó tránh khỏi. Kể từ khi Trung Quốc bắt đầu rũ áo cộng sản, trở thành một cường quốc kinh tế toàn cầu, các nhà lãnh đạo nước này đã theo đuổi chiến lược “gia tăng hoà bình” với những hành động khiêm tốn, thận trọng, không đe doạ láng giềng và gần như không kích động bất cứ một liên minh nào chống lại Mỹ.

Nhưng vài năm gần đây, khi mô hình kinh tế Mỹ tự vấp phải một cú sốc đầy lúng túng, và “Bắc Kinh đồng lòng cùng tiến”, thứ ngôn ngữ nổi lên ở Trung Quốc đó là “tương lai thuộc về chúng ta” hay và có thể chúng ta nên dẫn đầu thế giới. Gìơ đây, những ngôn từ như thế phần lớn xuất phát từ các vị tướng nghỉ hưu, và những bloger sắc sảo và giới lãnh đạo Trung Quốc thì vẫn thận trọng.

Nhưng mùa hè vừa rồi với những tranh chấp ngoại giao đã khiến các láng giềng của Trung Quốc, không đề cập tới Washington, phải tự hỏi, liệu Trung Quốc có thể duy trình hành động “người khổng lồ hiền lành” được bao lâu. Với con số ước tính khoảng 70 triệu bloger, các nhà lãnh đạo Trung Quốc giờ đây đang chịu một áp lực dai dẳng đòi hỏi họ phải quả quyết từ một cộng đồng blog theo chủ nghĩa dân tuý, chủ nghĩa dân tộc mà trong bối cảnh thiếu vắng bầu cử dân chủ, đã trở thành tiếng nói của người dân trên thực tế.

Tranh cãi ngoại giao là một phiên họp của diễn đàn khu vực Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á, ASEAN, tổ chức ngày 23/7 tại Hà Nội. Cuộc họp này có sự tham gia của ngoại trưởng 10 nước thành viên, cũng như Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton và người đồng cấp Trung Quốc Dương Khiết Trì.

Theo một trong các quan chức ngoại giao có mặt trong cuộc họp, thái độ của các ngoại trưởng ASEAN dù khó nhận thấy nhưng rõ ràng là thận trọng với việc Trung Quốc trở lại quyết định tuyên bố “chủ quyền không thể tranh cãi” với toàn bộ biển Hoa Nam (Biển Đông) – khu vực giàu tài nguyên, kéo dài từ Singapore tới Eo biển Đài Loan cũng như Việt Nam và chiếm khoảng một nửa lượng vận chuyển hàng hoá thế giới mỗi năm. Nơi đáy biển còn được tin rằng có dự trữ lớn về dầu và khí đốt; với việc Hải quân Mỹ trở nên gây hấn hơn trong việc bắt giữ các tàu cá mà họ cho rằng đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ. Trung Quốc cũng tham gia vào cuộc tranh chấp hàng hải với Hàn Quốc và Nhật Bản.

Theo lời một người tham dự, khi một vị ngoại trưởng tiếp theo một vị khác đứng lên trong cuộc họp ASEAN để khẳng định chủ quyền ở biển Hoa Nam (Biển Đông) hay khẳng định bất cứ tranh chấp lãnh thổ nào cần phải được giải quyết hoà bình và tuân thủ luật pháp quốc tế, Ngoại trưởng Trung Quốc đã dần bị kích động. Và sau khi bà Clinton tuyên bố, biển Hoa Nam (Biển Đông) là khu vực mà Mỹ “có lợi ích quốc gia” trong “tự do hàng hải”, ngoại trưởng Trung Quốc đã yêu cầu ngừng họp thời gian ngắn và sau đó trở lại khá nặng nề.

Phát biểu không cần văn bản, ông Dương nói suốt trong 25 phút, khẳng định rằng, đây là vấn đề song phương, không phải giữa Trung Quốc và ASEAN. Theo Washington Post, ánh nhìn của ông xuyên suốt căn phòng, dù có rất nhiều người, để tới tận ngoại trưởng Mỹ, ánh mắt đấy được mô tả kiểu như “Trung Quốc là một nước lớn” và hầu hết các thành viên ASEAN còn lại “là những nước nhỏ”.

Giới ngoại giao thì nhấn mạnh, phòng họp dường như có một sự đồng thuận khi ngoại trưởng Trung Quốc đang cố gắng chia tách nhóm, chia tách những nước tuyên bố chủ quyền với quốc gia không tuyên bố chủ quyền để có thể các thành viên trong khối không có một hành động chung ASEAN và mỗi nước sẽ phải đàm phán riêng lẻ với Trung Quốc.

Phản ứng tiêu cực mà ông Dương cảm nhận đã được chuyển tải tới Bắc Kinh, các nhà lãnh đạo Trung Quốc dường như muốn xoa dịu sự việc vì e ngại sau một thập niên Mỹ để suy giảm ảnh hưởng trong khu vực, thì chính họ có thể đẩy tất cả các nước láng giềng về phía Mỹ.

Tuy nhiên, các nhà lãnh đạo Trung Quốc có thể “trầm tĩnh” bao lâu, còn phụ thuộc dù chỉ một phần vào bên thứ ba: cộng đồng blog Trung Quốc – nơi cả một thế hệ được truyền dạy khái niệm rằng, Mỹ và phương Tây muốn kìm nén Trung Quốc, để giờ đây cộng đồng này có riêng chiếc loa phóng thanh để phủ nhận bất cứ vị quan chức nào của Trung Quốc cam kết thoả hiệp. Thậm chí, họ có thể gọi vị ấy là “ủng hộ Mỹ, hay kẻ phản bội”.

Thú vị là, Đại sứ quán Mỹ tại Bắc Kinh cũng đã bắt đầu với tay tới cộng đồng blog này, thậm chí mời các bloger đi xe cùng đại sứ Mỹ, Jon Huntsman, hay phỏng vấn ông khi ông tới thăm các tỉnh Trung Quốc của họ nhằm truyền tải thông điệp của Mỹ mà không cần “bộ lọc” bởi truyền thông chính thống Trung Quốc.

“Trung Quốc đầu tiên đã có một giới công khai thảo luận mọi thứ ảnh hưởng tới người dân Trung Quốc”, Hồ Dũng, một chuyên gia nghiên cứu cộng đồng blog tại Đại học Bắc Kinh nói. “Dưới thời truyền thông truyền thống, chỉ có người tầng lớp trên mới có tiếng nói, nhưng Internet đã thay đổi tất cả”, ông nhấn mạnh. “Giờ đây, chúng ta có một kiểu truyền thông vượt phạm vi quốc gia, đó là tiếng nói của toàn xã hội, vì thế mọi người từ các vùng miền khác nhau của Trung Quốc có thể thảo luận về những gì đang diễn ra ở một nơi xa xôi hẻo lánh, và tin tức lan truyền đi khắp nơi”. Ông tiếp tục, nhưng thế giới Internet thiên về “chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân tuý hơn. Nhiều năm chúng ta được giáo dục kẻ thù đang nỗ lực kìm nén chúng ta đã sản sinh ra cả một thế hệ thanh niên có tư tưởng như vậy, và giờ đaâ, họ có internet để thể hiện điều đó”.

Hãy quan sát không gian này. Những ngày mà Nixon và Mao có thể cố quản lý mối quan hệ trong sự bí mật đã không còn tồn tại. Có quá nhiều yếu tố bất ổn tồn tại ở đó, và cũng có quá nhiều người chơi với đủ sức mạnh thổi bùng hay làm dịu lại quan hệ Mỹ – Trung. Hoặc có thể diễn giải theo kiểu Công nương Diana, là có ba người trong cuộc hôn nhân này.

Friedman là nhà báo nổi tiếng của New York Time, người ba lần giành giải Pulitzer.

*

Người dịch: Nguyễn Hùng

Bản tiếng Việt © Ba Sàm 2010

Hãy liên lạc với chúng tôi, mọi bài vở đóng góp xin vui lòng gởi về NguoiVietTuDoRg@Yahoo.Com hoặc liên hệ bằng điện thoại Mobil : 01577. 77 22 459 . Chúng tôi rất hân hạnh được phục vụ quý vị.



Xin quý vị vui lòng Klick vào Links dưới đây để trở về trang chủ Diễn Đàn Regensburg

www.TrangChuRgBg.Blogspot.Com



BỎ ĐIÊU BỐN , LÀ XIN THÔI LÀM ÁC “

nguoithathoc1959

Xã Hội Chủ Nghĩa dùi cui và roi điện .

“ Tôi nói đồng bào nghe rõ không…?”

Tôi là bậc thầy của mấy thằng lưu manh đểu cáng đây .

——–

Sống dưới chế độ cộng sản chỉ có những kẻ mộng du hoặc tâm thần mới không nhìn ra chân tướng của nó . Sự tàn ác+ vô nhân của thể chế cộng sản nói chung và csvn nói riêng , mỗi khi nhắc đến làm người ta chỉ liên tưởng đến bất công , nghèo đói, lừa bịp , tai họa ,nhục hình , máu và nước mắt .

Đó là “ thành công tốt đẹp” . Mà chủ thuyết cộng sản mang đến cho loài người từ sự sai lầm hoang tưởng của mác – ănghen – lênin , Stalin và các đồ đệ của nó . Thứ nọc độc phải mất khá lâu thời gian người ta mới hủy diệt được . Vậy mà bốn ông được “ nhân bản vô tính “ Cuba , Bắc hàn , Tàu cộng và Việt cộng lại muốn tôn tạo và nhân giống như “ liều thuốc thần dược “ để duy trì quyền lực thống trị cách tàn ác trên muôn vàn sinh linh của nhân loại .

Bốn ông “ nhân bản vô tính “ này cũng không còn can đảm để nhận chân sự thật . Vì sự thật cho thấy theo đuổi chủ thuyết cộng sản là chấp nhận làm đĩ với chính tâm hồn mình . Sự thật là thứ người cộng sản sợ nhất , khó nhai nhất vì sự thật mang ra ánh sáng mọi tội ác tày trời không thể lấp liếm hay che đậy được , mà dùi cui và roi điện chỉ là thứ quyền lực của bọn người hạ đẳng .

MẸ VIỆT – NAM nhân từ . Người VIỆT – NAM hiếu hòa và bao dung , nhưng cộng – sản đã dồn người dân vào bước đường cùng bằng chính sách tham nhũng đàn áp cướp đất tùy tiện , bằng những thủ đoạn thấp hèn tự bản chất, mà sở trường của họ là nói láo không biết ngượng miệng , bôi nhọ và xuyên tạc . Trong đó có nhiều ( rất nhiều ) trí thức bán linh hồn cho quỷ để được vinh thân phì gia , thay vì phục vụ cộng – đồng xã hội , bằng cấp bao năm miệt mài sôi kinh nấu sử , niềm tự hào của bản thân và gia đình thành thứ giấy để Lộng kiếng , còn sót lại duy nhất cụm từ “ bọn trí thức lưu manh “ .

Ai cũng kính trọng những người trí – thức , tạm quên hạnh phúc riêng mình . Để bênh vực cho những người dân thấp cổ bé miệng mà cái già phải trả là bị đảng dồn vào đường cùng trong sinh hoạt hàng ngày hay những tháng năm tù tội , thay vì ở nhà với gia đình để tận hưởng những tiện nghi mà họ làm ra bằng sự thông minh và sức lao động của họ . Họ đáng được hưởng vì họ không ăn cướp ăn cắp của ai .

KHÁC, rất khác với những tên cướp ngày mang danh đảng cộng sản dí súng vào đầu dân để cướp đất , cướp nhà , cướp của , đút dùi cui vào mồm để buộc người khác im lặng . bằng cụm từ rất hoa mỹ “ tôi yêu sự thật , ghét sự giả dối và tôn trọng ý kiến khác biệt “ mà ngài thủ tướng lưu manh nguyễn tấn dũng ( không đáng để viết hoa ) từng rêu rao trên cả nước . Chích roi điện cả những người phụ nữ chân yếu tay mềm đến ngất xỉu vì họ dám biểu tình chống bọn quan tham bất công thối nát ,chống những kẻ cướp đất của cha ông họ bao đời để lại bằng cụm từ Nhà nước quản lý.

Ai cũng mơ người VIỆT – NAM sau những thăng trầm của đất nước , sau những vinh nhục của đời mình , phận người . Khi đó con người luôn nhìn nhau bằng ánh mắt yêu thương và tha thứ , vượt lên trên những dáng vẻ bên ngoài , để chỉ nhìn thấy những điều tốt đẹp cho nhau .Và ai cũng mơ có một ngày ông chủ tịch nước nguyễn minh triết đính chính trước toàn dân VIỆT – NAM về câu nói “ bỏ điều bốn là tự sát “ , bằng câu nói : “ Tôi nói đồng bào nghe rỏ không ? “

” BỎ ĐIÊU BỐN , LÀ XIN THÔI LÀM ÁC “ .

Và ai mà không mơ ngày nào đó trên đất nước Việt Nam này không còn cộng sản .

Saigon , những giờ lang thang để nhớ , để yêu thương và kính trọng , những ai đã và đang sẳn sàng hy sinh để làm chứng cho TÌNH YÊU và SỰ THẬT .

Nguoithathoc1959.

Nỗi Đau Thương Của Dân Tộc Sau Chiến Tranh: Ngàn Giọt Lệ Rơi

Lê Quế Lâm

Hình Đặng Mỹ Dung


Đặng Mỹ Dung


Chiều ngày 16/5/2010, tại San José, bắc California có buổi ra mắt sách Ngàn Giọt Lệ Rơi của bà Đặng Mỹ Dung (MD). Sự hoảng hốt của đồng bào miền Trung hồi giữa tháng Ba 1975 đã lan tới Hawai, nơi Mỹ Dung và đứa con trai 5 tuổi đang sống êm đềm với chồng là John Krall -Thiếu tá Hải quân HK. Một ngày nọ, Mỹ Dung nhận được điện thoại từ Paris của một người xưng tên Jean Sagan, tự nhận là bạn thân của cha cô tức ông Đặng Quang Minh (ĐQM), Đại sứ Mặt trận Giải Phóng MN tại Moscow. Ông bảo Mỹ Dung phải tìm cách đưa mẹ và gia đình rời khỏi VN. Ông cho biết, những người bạn của ba cô sắp tiến vào Sàigòn. Mỹ Dung hỏi tại sao những người bạn của cha cô vào Sàigòn mà lại đưa mẹ mình xuất ngoại. Ông Sagan trả lời: đừng thắc mắc dài dòng, hãy đưa mẹ cô rời Sàigòn ngay. Mỹ Dung hỏi ông ta làm cách nào vì không người Việt nào được phép rời đất nước trong lúc này. “Cô hãy nói với chồng đến gặp Đô đốc Gaylor Tư lịnh Quân lực HK ở Thái Bình Dương, ông ta là người tốt sẽ giúp đỡ”.

John không thể nhờ Đ/đốc Gayler can thiệp vì anh đã không báo thượng cấp sự việc cha vợ là cán bộ cao cấp của CS. Nay vì sự an nguy của mẹ vợ, John đã liều lĩnh đến Sàigòn mà không có phép của cấp chỉ huy. Sứ mạng được vợ giao gặp nhiều khó khăn, vì lẽ John không còn làm việc ở Nam VN. Một ngày nọ, từ bao lơn nhà mẹ vợ nhìn xuống đường, John phát hiện có kẻ lạ mặt, rõ ràng là cán bộ Việt Cộng lảng vảng trước nhà. Có lần họ gõ cửa, mời bà đến chỗ hẹn để nhận tin tức chồng bà -ông Đặng Quang Minh, nhưng bà từ chối. Những chỉ dấu đó cho thấy cá nhân bà đã bị theo dõi và nguy hiểm như ông Sagan đã nói. John phải làm liều, đến Tòa Đại sứ Mỹ báo cáo cha vợ là Đại sứ CSVN tại Moscow. Chi tiết trên được trình thượng cấp, nhưng họ không tìm thấy danh tánh ông đại sứ trong hồ sơ lưu trữ, có lẽ phần lớn đã bị hủy bỏ, phải chuyển về Tổng Hành Dinh CIA ở Langley, Virginia để kiểm chứng.

Trong lúc John nóng ruột về việc ra đi của mẹ vợ, thì bà lại lo sợ về sự rủi ro của con rể, John có thể bị VC bắt cóc. Bà điện thoại báo cho con gái “Chồng con đã làm tốt mọi việc, sự có mặt của nó ở Sàigòn không còn an toàn nữa, con phải khuyên chồng con trở về Hawai ngay”. Mỹ Dung liền gọi cho chồng, John bảo vợ phải trình bày ngay sự việc với Đ/đốc Gaylor. Cô điện thoại đến tư thất viên tướng chỉ huy cao cấp nhứt của Quân lực Mỹ ở Thái Bình Dương. Tùy viên cho biết ông đang ngủ vì mệt mỏi sau gần 18 giờ làm việc liên tục. Mỹ Dung xin được nói chuyện với phu nhân đô đốc. Sau khi lắng nghe, bà nói “Tôi phải đánh thức, ổng không thể ngủ trước một sự việc như thế này?’ Mỹ Dung tường thuật cho ông nội dung cuộc điện đàm giữa cô với ông Sagan ở Paris. Hôm sau, một viên chức dân sự mà Mỹ Dung tin là người của CIA đến tiếp xúc với cô. Cuộc giao tiếp giữa cô và CIA bắt đầu từ khởi điểm này. Hai tuần sau, mẹ và hai em Mỹ Dung, là những người VN di tản đầu tiên đến đảo Guam.

Ông Đặng Quang Minh Đại sứ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tại Liên Xô


Cuối tháng 7/1975, Đại sứ Đặng Quang Minh hướng dẫn phái đoàn MTGPMN từ Moscow đến Nhựt tham dự hội nghị của tổ chức các lực lượng chống bom nguyên tử. Được tin này, Mỹ Dung cùng con đến Tokyo để gặp lại thân phụ sau 21 năm xa cách. Cuộc tái ngộ diễn ra trong nước mắt lẫn đắng cay. Ông Minh ôm con vào lòng, nước mắt dàn dụa “Con gái yêu của ba. Ba không có lời nào để nói hết nỗi thương nhớ dành cho má con và các con”. Sau đó, nói đến cái chết của đứa con trai út Hải Vân, ông không dằn được sự tức tối: “Người ta nói với ba, nó bị Mỹ giết và chính những người đó đã lừa má con rời Sàigòn trước khi ba trở về. Ba không muốn nhắc đến Hải Vân nữa”. Song Mỹ Dung tìm cách giải tỏa định kiến của ông: “Liệu ba có tin vào sự thật hay chỉ muốn nghe những lời bịa đặt dối trá. Em con không bị ai giết cả, nó là phi công trong không lực VNCH, chết vì tai nạn trong khi huấn luyện. Ba nên tìm hiểu cái chết của em con từ chúng con, chớ không phải từ sự nói dối của chánh quyền cộng sản của ba”.

Mỹ Dung vuốt ve tự ái của ông “Con rất hãnh diện vì ba là một người Việt Minh, bị tù đày cũng vì lý tưởng VM, nhưng con không chấp nhận sự hiện diện của chánh quyền Hà Nội ở MN”. Ông tiếp lời “Rồi con sẽ còn tự hào về ba, tin tưởng ba sẽ làm hết sức mình vì đồng bào MN. Chúng ta không phải là người chiến thắng duy nhứt. Người Mỹ cũng thắng cuộc chiến này”. Mỹ Dung không hiểu thân phụ mình hàm ý gì nên cãi lại: “Chỉ một ít những tên hoạt động phản chiến, chớ không phải tất cả người Mỹ. Chúng con không vui vì đã mất miền Nam”. Mỹ Dung phân trần “Không ai dám nói thẳng như thế với một đại sứ của MTGP nhưng con may mắn là con của ba, con lợi dụng lợi thế đó để tâm tình với ba”. Ông đồng ý vì mẹ con nó đã đồng lao cộng khổ với ông trong 9 năm kháng chiến, họ đã hấp thụ được ở ông lòng yêu nước. Nhưng giờ đây lòng yêu nước không còn giống nhau, song họ vẫn thương yêu và tôn trọng chí hướng của nhau

Ông Đặng Quang Minh và các đại biểu CS cao cấp Tại Liên Xô

Vì tình máu mủ, Mỹ Dung hỏi “Anh con giờ đây ra sao?” Ông đáp: “Nó không còn ở trong quân đội, nó làm việc ở đài truyền hình. Sau khi về Hà Nội, ba và anh con sẽ trở về quê hương”. Nghe nói “trở về quê hương” Mỹ Dung xót xa, cảm thấy có sự phân cách lớn trong tình cảm gia đình. Giờ đây lá cờ đỏ của CS đang tung bay tại Sàigòn. Đó là quê hương của ba cô, chớ nơi đó không còn là quê hương của mình nữa. Ông Minh nói tiếp “Khôi nhớ thương con. Con phải về thăm gia đình”. Mỹ Dung dứt khoát “Không, thưa ba. Con không thể tìm nguồn vui riêng khi đồng bào miền Nam bị chánh quyền Hà Nội đối xử tàn tệ”. Ông đè nén tự ái để bày tỏ ước vọng với con “Ba muốn má con về sống với ba”. Mỹ Dung trả lời “Má con cũng không mong gì hơn là được sống bên ba”. “Vậy con ráng đưa má con sang Paris để gặp ba.

Trở về Hà Nội, ông Đặng Quang Minh xin Tổng Bí thư Lê Duẩn cho phép ông được sang Paris công tác để thuyết phục vợ con trở về VN. Lê Duẩn lớn hơn ông Minh một tuổi, cả hai đều ở tù Côn Đảo từ 1940 đến 1945, sau đó tham gia kháng chiến chống Pháp đến 1954. Năm 1960 ông Duẩn trở thành Bí thư Thứ nhứt Đảng Lao động VN, còn ông Minh được cử làm Đ/sứ MTGPMN ở Moscow. Về phần Mỹ Dung, theo hướng dẫn của cha, cô liên lạc với Phan Thanh Nam (PTN) -quyền Đại sứ Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa MNVN ở Paris can thiệp với Bộ Ngoại giao Pháp cấp visa cho mẹ cô. Bà đã đến Paris kịp lúc với chồng vào tháng Chín 1976. Sau 22 năm xa cách, ông bà được hội ngộ ở tuổi cuối đời, Mỹ Dung mong muốn ba má được thoải mái trong không khí gia đình. Nhưng ông luôn bị nhân viên Sứ quán CS ở Paris bám sát. Mỹ Dung khéo léo gợi ý ông về hưu, ba mẹ hủ hỉ bên nhau trong tuổi về già tại một nước nào đó không phải VN cũng không phải HK, con cháu cũng tiện tới lui chăm sóc khi ông bà già yếu.

Ông phản đối ý kiến của con, cho đó là thái độ vô cùng ích kỷ. Ông phải trở về nước, hoàn thành nhiệm vụ giúp miền Nam tái thiết, để phát triển vững mạnh trong một thời gian năm bảy năm, trước khi thống nhất với miền Bắc. Trong khi ông lạc quan ở Paris, thì số cán bộ MTGPMN sau chiến thắng 30/4/1975 đã thấy rõ thân phận của mình, như câu nói của người xưa “Giảo thố tử, tẩu cẩu phanh” (Thỏ chết thì chó săn bị làm thịt) nên họ âm thầm tổ chức một bữa tiệc đơn sơ để tuyên bố giải tán MTGPMN, rồi ngậm ngùi chia tay. Đảng và chính quyền CS không thèm cử đại diện đến tham dự. Giờ đây họ chỉ xử dụng những phần tử nào tiếp tục con đường “chống Mỹ cứu nước” như Phan Thanh Nam ở Paris.


Bìa cuốn sách " Ngàn Giọt Lệ Rơi"


Vụ án gián điệp Dragon Magic (Con Rồng kỳ diệu): Mỹ Dung được CS đón tiếp niềm nở. Nhờ đó cô có dịp đặt chân vào trụ sở MTGPMN và văn phòng bà Nguyễn Thị Bình trong thời gian diễn ra cuộc đàm phán Paris. Mỹ Dung đã tiếp xúc với Đại sứ Hà Nội Võ Văn Sung và phát hiện một số cán bộ CS nằm vùng ở Paris. Những ghi nhận về nhân sự và hoạt động của CSVN tại Paris đều được Mỹ Dung báo cáo cho CIA. Trong khi đó, PTN và các đồng chí ra sức “động viên” Mỹ Dung thuyết phục bà mẹ trở về nước. Y tuyên dương hành động trở về của bà là một chiến thắng lớn của CSVN, là cái tát vào mặt TT Gerald Ford và Chính phủ Mỹ đã cho CIA bắt cóc bà đem về Mỹ.

Sau lần cha mẹ gặp nhau ở Paris, Mỹ Dung vẫn trì chí tìm mọi cách để ông bà và anh em đoàn tụ. Cô giữ mối liên lạc với những người CS bạn của ba cô ở Paris, ông có uy tín lớn đối với họ. CS tin tưởng Mỹ Dung với tình thương cha sâu đậm, cô sẽ giúp họ thu thập những tin tức kỹ thuật và tình báo từ chồng cô. Lần hồi qua sự giao tiếp, cô được Đ/sứ Võ Văn Sung giới thiệu với Chủ tịch hội Việt Kiều yêu nước ở Mỹ và Đinh Bá Thi, đại sứ CSVN ở LHQ. Qua PTN cô gặp Trương Đình Hùng và một số cơ sở CS hoạt động ở Hoa Thạnh Đốn. Hùng nhờ cô chuyển một số tài liệu mật do Ronald Humphrey (một viên chức cao cấp của bộ Ngoại giao HK được phép đọc tài liệu mật) lấy trộm từ bộ Ngoại giao. Mỹ Dung trao những tài liệu mật này cho CIA để tráo thành tài liệu giả chuyển đến Tòa Đại sứ Hà Nội ở Paris. Humphrey có vợ là cháu của một nữ cán bộ CSVN, ông liều lĩnh hành động để Hà Nội sớm cấp giấy xuất cảnh cho vợ con.

Để lấy lòng Mỹ Dung , Phan Thanh Nam giúp cô gởi quà về cha và anh cô ở Sàigòn. Cô nhét dấu đô la trong quà để giúp anh cô có tiền để vượt biên. Việc này được sự tán đồng của CIA, họ cũng muốn đón tiếp Khôi vào HK, vả lại cô còn giúp họ thu thập những tin tức về các hoạt động của Hà Nội ở Pháp và Mỹ. Tuy nhiên việc chuyển những tài liệu mật của Bộ Ngoại giao Mỹ cho CS liên quan đến gián điệp, đây là công tác quá nguy hiểm. Các viên chức FBI luôn cảm thấy bức rứt khi thấy Mỹ Dung đi xa vào một điệp vụ rất nguy hiểm mà cô phải thường xuyên đối đầu. Còn Bộ Tư pháp nhận thấy việc làm của Ronald Humphrey gây tác hại lớn cho nước Mỹ, ông ta đã thâm nhập rộng rãi vào các thông tin đầy nguy cơ đối với nền an ninh quốc gia..

Đối với FBI và Bộ Tư pháp, điệp vụ của Mỹ Dung lớn đến mức phải chấm dứt ngay một cách tuyệt đối. CIA phản đối mãnh liệt, họ không muốn việc làm của họ bị tiết lộ và Mỹ Dung sẽ không còn cơ hội cung cấp cho họ những tin tức quý giá của CS. Cuối cùng thẩm phán Bill phải đích thân giải quyết, ông nhận thấy tầm quan trọng của vụ án này và tìm mọi cách để truy tố kẻ phạm pháp ra tòa. Đó là vụ án gián điệp Dragon Magic. Giờ đây, Mỹ Dung phải đối đầu với một tình thế vô cùng nguy hiểm cho bản thân và gia đình, nếu cô ra tòa làm nhân chứng. Tuy nhiên, cô sẵn sàng với điều kiện là chính phủ Mỹ phải bảo đảm cho cha và anh cô được vào nước Mỹ, sau đó mới xúc tiến việc bắt giữ và truy tố Humphrey và Trương Đình Hùng. Yêu cầu của cô được Bộ Tư pháp chấp thuận. Sau đó, Mỹ Dung nhờ Đ/s Đinh Bá Thi chuyển thơ của cô đến Lê Duẩn cho biết mẹ cô không còn sống bao lâu nữa vì chứng bệnh nan y. Ước nguyện của bà là được gặp chồng lần cuối và đứa con trai thân yêu đã xa lìa bà trong suốt 23 năm dài.

Ông Đặng Quang Minh

Mười ngày trước lễ Giáng sinh 1977, ông Đặng Quang Minh được phép đến Luân Đôn gặp vợ. Trong hai tuần ở Anh, ban ngày ông sống với vợ con, ban đêm ông phải về trụ sở đảng của ông. Mỹ Dung và em gái lợi dụng mọi cơ hội, trong thân tình phụ tử mong muốn ông về hưu, đoàn tụ với gia đình với lý lẽ: Ba đã cống hiến gần hết cuộc đời cho dân tộc. Nay đất nước đã hòa bình, ba 68 tuổi rồi, chúng con muốn ba về sống với má và chúng con. Ông thối thoát: ba đã chiến đấu 46 năm cho đất nước, giờ đây đất nước vẫn còn cần ba góp sức xây dựng, tái thiết miền Nam trong một thời gian dài, để còn thống nhất đất nước. Ba không thể bỏ cuộc, đào thoát sống ở nước ngoài. Mỹ Dung trả lời con đâu có muốn ba đào thoát, chúng con chỉ muốn ba về hưu, chọn một nước trung lập nào ba thích, dành quãng đời ngắn ngủi còn lại để má và chúng con được cận kề bên ba. Đó là lẽ công bằng. Ông dứt khoát: ba là người VN, sanh ra ở VN và sẽ chết ở VN. Ba được đến đây gặp má và chúng con là vì đảng và nhà nước tin tưởng ba. Nay ba ở lại, ba sẽ mất hết uy tín, các con thương ba, chắc các con không để ba mất danh dự. Ý định bắt cóc ông Đặng Quang Minh, đưa ông bà về Mỹ của Mỹ Dung không thực hiện được. Việc này chỉ làm ông đau khổ thêm ở tuổi già, ông sẽ tự tử.

Theo dõi cuộc đối thoại, mẹ Mỹ Dung thấy ai cũng có lý. Bà khuyên con đừng lên án CS để hành hạ ba con, vì ông là người CS. Ba đã nói với má, dù sống xa các con, song lúc nào ông cũng vẽ ra trong đầu hình ảnh đẹp về các con. Nay ông đã thấy các con hạnh phúc. Hãy để ba con được vui trọn vẹn trong những ngày đoàn tụ này. Đừng nói đến chánh trị nữa. Má con mình đã thương yêu, thì phải thương yêu cho trót, để ông làm hết bổn phận đối với đồng bào. Nghe lời mẹ, Mỹ Dung xin cha tha lỗi vì những ý nghĩ nông cạn của mình. Ông trả lời “ba luôn tha thứ, nhưng các con đừng bao giờ nhắc đến những ý nghĩ đó trước mặt má con, chỉ làm má con buồn”.

Ngày về nước, ông ôm bà từ giã, rồi lầm lủi bước thẳng ra xe, không can đảm quay lại nhìn người vợ thân yêu lần cuối. Sau đó Bộ Tư pháp HK tiến hành thủ tục bắt giữ và truy tố Ronald Humphrey và Trương Đình Hùng về tội gián điệp. Vụ án được tòa xét xử từ đầu tháng Năm 1978, MD tuyên thệ làm nhân chứng chính của chính phủ HK. Quyển A Thousand Tears Falling kết thúc tại đây.

Câu chuyện trong sách của bà Krall tức Mỹ Dung là sự thật, nhưng bản thảo không được CIA giải mật để sách được phát hành. Họ chỉ cho phổ biến những thông tin nào giúp làm sáng tỏ vụ án, song không phương hại đến nền an ninh quốc gia. Nỗ lực đấu tranh để bản thảo được giải mật kéo dài quá lâu, người ta phải viện dẫn cả Tu Chính Án số 1 trong Hiến pháp HK về tự do ngôn luận. Vì thế 15 năm sau, sách A Thousand Tears Falling mới được xuất bản (1995). Còn ấn bản Việt ngữ Ngàn Giọt Lệ Rơi mãi đến 2010, nhân kỷ niệm lần thứ 35 ngày Quốc hận 30/4, mới chánh thức ra mắt đồng hương chúng ta. Đoạn cuối cuộc đời thân sinh của tác giả không được đề cập đến, kể từ buổi chia tay lần cuối với người cha mà cô hết mực kính yêu. Những tin tức sau này cho biết anh tác giả đã vượt biên tìm tự do năm 1986 và đã chết ở Mỹ năm 2006. Mẹ của tác giả cũng đã qua đời. Thân phụ Mỹ Dung chết vì chứng đột quỵ năm 1986. Ông Lê Duẩn cũng chết năm này. Đây là thời điểm CSVN chủ trương đổi mới để sống còn.

Đoạn kết cuộc đời song thân của Mỹ Dung cũng đau thương như thảm cảnh chung của dân tộc. Tác giả Ngàn Giọt Lệ Rơi không muốn khơi lại nỗi đau của gia đình. Nhưng câu chuyện trong NGLR là một phần của lịch sử dân tộc. Vì đất nước ngày mai, người viết ghi lại một vài sự thật của MN với những tâm tình mà ông Đặng Quang Minh chia sẻ với vợ con…Để nói lên sự đau đớn cuối đời của một người vì yêu nước đã hy sinh cả cuộc đời vì lý tưởng CS.

Những trăn trở của người CS chiến thắng: Sau 45 năm đi làm cách mạng, ông Đặng Quang Minh đã chiến thắng, “giải phóng đồng bào miền Nam khỏi trại trập trung khổng lồ của Mỹ Ngụy” ??!. Nhưng những người thân yêu nhứt đã rời bỏ quê hương, di tản sang Mỹ. Ngày trở về miền Nam ông đã thấy xót xa, vợ con mình đã không còn tin ở mình ? thì làm sao đồng bào có thể đặt tin tưởng ở mình nữa !??

Vì lòng yêu nước ông đã chiến đấu chống thực dân Pháp. Nhưng trong cuộc chiến chống Mỹ, đồng bào miền Nam lại được Mỹ bảo vệ để có cuộc sống phồn vinh, điển hình là ngôi nhà khang trang của vợ ông ở Sàigòn. Các con gái ông có chồng Mỹ, chồng Mỹ Dung hết lòng thương yêu vợ nên đã liều lĩnh về Sàigòn cứu mẹ vợ, và đã sắp xếp để ông có dịp gặp lại vợ con. Nhờ đó họ có dịp nói với ông một sự thực: miền Nam đang sống trong tự do thanh bình, CS lại gây ra cuộc chiến đẫm máu. Ngày CSBV tiến vào miền Nam, đồng bào từ Bến Hải trở vào lũ lượt bỏ nhà, tìm mọi cách chạy trốn CS trong hỗn loạn. Sau 30/4/1975 đồng bào phải mạo hiểm vượt biển bằng thuyền con để lánh nạn CS.

Ông Minh bắt đầu ngờ vực về đảng CS của ông. Từ giã vợ con, ông về nước với ý nguyện tái thiết và phát triển miền Nam vững mạnh trong một thời gian dài trước khi tái thống nhứt đất nước. Đó chỉ là ước vọng mà thôi. CS xâm lược miền Nam, bần cùng hóa nhân dân và trả thù mà thôi. Hậu quả là miền Nam lâm vào cảnh cùng khổ, lần đầu tiên trong lịch sử, đồng bào trong Nam bị đói, phải ăn độn bằng khoai bắp, bo bo. Mọi nhu yếu phẩm đều khan hiếm trầm trọng. Người dân miền Nam bị áp đặt một chế độ độc tài chuyên chính còn tàn bạo hơn thời thực dân Pháp. Cả triệu người bị đưa vào các trại tù cải tạo chỉ vì tội bảo vệ tự do, kinh doanh làm giàu cho đất nước. Vợ ông Minh đã ra đi trước và cương quyết không nghe lời ông về nước. Nếu bà ở lại chờ ông về hoặc nghe lời ông hồi hương, thì giờ đây ông càng khổ tâm nhiều, làm sao có thể cứu được bà, một người đã phản bội cách mạng, phản bội chồng, cho các con lấy chồng Mỹ.

Đối với Miền Nam, ông bất lực không thực hiện được ước mơ cuối đời của mình. Đối với người vợ tào khang tấm mẫn, đã sát cánh bên ông trong những ngày kháng chiến chống Pháp gian khổ, rồi tần tảo nuôi con để ông đi làm cách mạng suốt cả đời. Bà chỉ xin ông một việc nhỏ: “Giúp con, thằng Khôi gặp lại tôi”. Ông cũng không làm được. Đứa con trai lớn đã sống bên ông từ lúc sơ sanh đến tuổi 50, từng du học ở Tàu Cộng và Liên Xô, cuối cùng cũng đến chào từ biệt ông, lên đường vượt biên tìm tự do, để gặp lại mẹ và các em. Tại quê hương chỉ còn nấm mộ của đứa con trai út mà ông thường lui tới thăm viếng tại nghĩa trang Biên Hòa. Đồng bào miền Nam còn tri ơn nó đã hy sinh vì tổ quốc, vì dân chủ tự do cho đồng bào; chớ có mấy ai nhớ đến một người CS như ông!

Nhớ lại ngày Lễ Giáng sinh 1977 ở Luân Đôn, ông kể cho các con nghe về quãng đời thanh xuân: Năm 16 tuổi, ba coi việc bảo vệ tổ quốc là một vinh dự lớn của thanh niên, nên đã tham gia cách mạng. Năm 26 tuổi ba gặp người con gái tâm đầu ý hợp là má con. Ông bà nội ngoại đều tán đồng, cho phép ba cưới má con. Từ đó đến nay, má con suốt đời chung thủy, hết lòng chăm lo cho các con, đúng như ý ba mong muốn.

Có thể nói, trong việc lập gia đình ông Đặng Quang Minh có sự lựa chọn đúng. Nhưng trong việc phục vụ dân tộc, ông đã chọn lý tưởng sai. Cha mẹ vợ của ông là những người yêu nước không có khuynh hướng CS. Vì thương con rể, ông bà không tán đồng cũng không phản đối chí hướng của con. Sự mâu thuẫn này kéo dài qua ba thế hệ. Con gái và các cháu ngoại của ông bà không ưa CS nhưng lại hết lòng thương yêu chồng và cha của họ là CS. Hậu quả đắng cay là gia đình ly tán.

Ông Đặng Quang Minh là người yêu nước tham gia đảng CS. Và khi CS chiến thắng, ông đem sự đau thương về cho vợ con nói riêng và đồng bào đất nước nói chung. Ông trở về trong trăn trở, lỡ khóc lỡ cười, “Mình là cộng sản hay là nạn nhân của cộng sản?” làm sao đồng bào hiểu được! Ông chỉ còn trông cậy vào con, có thể giúp ông giải bày nỗi lòng. Mỹ Dung nói với Chủ nhiệm báo Việt Luận Úc Châu “Lần cuối cùng gặp ba tôi ở Luân Đôn, tôi có cho ba tôi biết là mấy chục năm nay tôi viết nhựt ký. Ba tôi có vẻ ưu tư rồi khuyên tôi nên viết thành sách cho con cháu trong gia đình biết về tổ tiên ông bà của chúng nó. Tôi nhớ hoài câu nói ngắn ngủi nhưng thành thật vô cùng của một đảng viên CS “Con viết dùm cho ba, hoàn cảnh chưa cho phép những người như ba viết hồi ký, chỉ có chánh phủ mới được viết hồi ký thôi con à”.

Quyển Ngàn Giọt Lệ Rơi đã ra mắt độc giả, Mỹ Dung đã “viết dùm” cho thân phụ, để bên kia thế giới ông nhẹ đi phần nào mặc cảm, và giúp những người CS còn sống thức tỉnh, hầu góp phần không muộn vào công cuộc phục vụ quê hương. Cuộc đời của những thành phần yêu nước bị CS lợi dụng, lừa dối là một bài học hữu ích, phải được truyền giảng sâu rộng.

Ngàn Giọt Lệ Rơi chuyên chở những ý nghĩa gì?

Tại sao những người như ông Đặng Quang Minh không được viết hồi ký mà chỉ có chánh phủ mới được viết? Điều này chứng tỏ ở VN không có tự do ngôn luận. Những người CS yêu nước mà không được viết, thì những người không CS làm sao có thể bày tỏ nguyện vọng của mình để xây dựng đất nước !? Những người yêu nước viết hồi ký, họ sẽ nói sự thật, vì mục tiêu đấu tranh của họ trong sáng: vì quyền lợi tối thượng của dân tộc VN. Trong khi các lãnh tụ CSVN phục vụ Nga Tàu thì làm sao họ dám nói sự thật phũ phàng đó, nên phải gian dối và lừa gạt, để khỏi mang tiếng phản bội dân tộc.

Mỹ Dung phát hành quyển Ngàn Giọt Lệ Rơi đúng vào ngày Mother Day, có lẽ để tưởng nhớ người mẹ. Bà là mẫu người phụ nữ Việt Nam điển hình với các đức tính truyền thống “tam Tòng tứ Đức”. Lúc trẻ bà sống với song thân được giáo dục tốt, nên bà đã dạy các con biết cách cư xử ở đời sao cho phải đạo làm người. Khi “xuất giá tòng phu”, từ 18 tuổi đến gần 40 tuổi, bà luôn ở bên chồng đang chiến đấu chống thực dân Pháp. Năm 1954, chồng tập kết ra Bắc, bà thay chồng nuôi dạy các con. Đến khi CS chiến thắng trong đó có chồng bà, bà quyết định theo con. Đó có phải vì “phu tử, tòng tử” chồng đã chết nên phải theo con?

Chồng bà yêu nước, nên chống thực dân đế quốc, để nước nhà được độc lập tự chủ, chớ không phải chống Pháp Mỹ để mang vào đất nước chế độ độc tài tàn bạo phi nhân của CS Nga Tàu. Vì vậy, bà coi như chồng đã chết từ thời điểm này. Sau đó hai lần gặp lại chồng, bà đối xử với ông cho trọn đạo nghĩa phu thê…Nhưng dứt khoát không trở về với chồng, mà trong tâm tư bà coi như đã chết. Dù ông có quyền cao chức trọng, bà cũng coi mình đã trở thành góa phụ từ khi miền Nam lọt vào tay CS. Bà là biểu tượng của người Việt Tự do ở hải ngoại, không bao giờ chấp nhận hòa giải với những người CS phản bội dân tộc.

Còn tác giả quyển Ngàn Giọt Lệ Rơi ? Trong lời nói đầu quyển A Thousand Tears Falling, cựu Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ -ông Griffin Boyette Bell đề cao “Yung Krall đúng là một công dân Mỹ vĩ đại. Tình yêu nước Mỹ đã dẫn dắt cô trở thành nhân chứng then chốt trong vụ án gián điệp mang tên Con Rồng Kỳ Diệu (Magic Dragon) mà cô biết chắc chắn sẽ đặt cô và đứa con trai nhỏ của cô trước vô cùng hiểm nguy”.

Ngoài sự can đảm chấp nhận hiểm nguy, Mỹ Dung còn chấp nhận sự đau lòng của đứa con chí hiếu. Việc đứng ra làm nhân chứng của cô sẽ làm tiêu tan hy vọng của bà mẹ, ngày đêm mong được gặp lại trưởng nam của bà. Hành động của Mỹ Dung còn tác hại đến địa vị của người cha ở VN. Ngoài ra cô còn phụ lòng CIA, cơ quan đã đáp lại yêu cầu của cô đưa mẹ và các em rời VN và sau đó tạo điều kiện giúp ba má cô gặp nhau hai lần. CIA sẵn sàng ủng hộ và mong muốn cô khước từ việc làm nhân chứng trước tòa án.

Vậy động lực nào khiến cô được đề cao là công dân Mỹ vĩ đại, có phải chồng cô là người Mỹ, cô có bổn phận phục vụ nhà chồng? Điều đó chỉ đúng một phần, theo suy nghĩ của người viết, vì cô là một người Mỹ gốc Việt -một người VN ngay thẳng. Sở dĩ cô hành xử như vậy, vì cô là một “người Việt Nam biết điều”. Chấp nhận hiểm nguy, hy sinh tình cảm cá nhân, chỉ với tấm lòng thành muốn được “đền ơn trong muôn một” đất nước HK vì những hy sinh của họ đối với dân tộc VN.

Bài học của người lãnh đạo CS: Tác giả Ngàn Gịot Lệ Rơi không đề cập nhiều đến nhân vật có thể nói là “ly kỳ bí mật” Jean Sagan. Ông đã góp phần đưa câu chuyện riêng tư của một gia đình VN gắn liền với vận mạng dân tộc. Phải nhắc lại bối cảnh thời cuộc lúc bấy giờ để ôn lại lịch sử và vì đất nước ngày mai. Người viết liên tưởng đến buổi điều trần của Đại sứ Martin trước Tiểu ban Điều tra Đặc biệt của Ủy ban Liên hệ Ngoại giao Quốc tế Hạ viện HK ngày 22/1/1976. Một dân biểu đã nhắc lại lời tuyên bố của NT Kissinger ngày 5/5/1975 “cho đến ngày 27/4/1975 HK vẫn còn nhiều hy vọng CSBV sẽ không có ý chiến thắng về quân sự mà họ sẽ thương lượng một giải pháp chính trị với Dương Văn Minh”. Vị dân biểu đã hỏi Đ/s Martin “Sự kiện nào đã khiến HK nghĩ chuyện đó có thể xảy ra?

Đ/s Martin trả lời: Sở dĩ Ngoại Trưởng Kissinger tuyên bố như vậy trong cuộc họp báo ngày 29/4/1975 ngay sau khi HK di tản khỏi Sàigòn là vì “HK đã liên lạc với nhiều người trung gian đại diện cho MTGPMN và BV và có được một vị trí để trao đổi quan điểm qua lại”. Đ/s Martin còn tiết lộ ngày 5/5/1975 NT Kissinger “có nói là người Nga đã giúp đỡ chúng ta di tản người Mỹ và Việt, đồng thời họ cũng cho biết có một khả thể nào đó cho sự thay đổi về thương lượng chính trị cho hai bên”. Ông trình bày tiếp, hồi cuối tháng Tư 1975, VNCH đã nhanh chóng đáp ứng những đòi hỏi của CSBV như là điều kiện thương thuyết: TT Thiệu từ chức, TT Hương người kế vị cũng từ chức. Họ chỉ nói chuyện với Dương Vân Minh, đòi hỏi này cũng được thỏa mãn, Dương Văn Minh lên làm tổng thống. Sàigòn thỏa mãn tất cả những đòi hỏi của phía CS. Tuy nhiên như NT Kissinger đã tuyên bố “vì những lý do gì không rõ, CSVN thay đổi ý kiến vào đêm 27/4 và thi hành kế hoạch quân sự của họ”. (Cao Văn Viên, Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa (Nguyên tác The Final Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong) Viet Nam Bibliography xuất bản, 2003, Tr.278-279)

Qua dẫn chứng trên, người viết có thể suy đoán Sagan là một giới chức ngoại giao Pháp có cảm tình với MTGPMN, với nhân dân VN hoặc đó chính là cán bộ cao cấp của MTGP. Họ tạo ra mối ân tình giữa Đại sứ MTGPMN tại Moscow với HK, có thể sẽ giúp giải pháp kết thúc chiến tranh của HK thành tựu, qua sự hòa giải giữa hai bên miền Nam theo tinh thần Hội Đàm Paris 1973. Kế hoạch trên đã bất thành trong đêm 27/4/1975 vì chủ trương của Hà Nội là dùng bạo lực quân sự thôn tính MN. Mâu thuẫn cuối cùng trong chiến tranh VN vào hồi kết thúc cuối tháng Tư 1975 không phải giữa VNCH và MTGP mà là giữa MTGP với Hà Nội. Vì thế MTGP không thể tiếp xúc riêng với HK để kết thúc chiến tranh bằng giải pháp Dương Văn Minh. Để MTGP từ bỏ ý định này, Hà Nội sẽ không ngần ngại cầm giữ bà Đại sứ MPGP và cả con rể, để áp lực ông Đặng Quang Minh. Đó là lý do tại sao ông Sagan yêu cầu Mỹ Dung phải đưa mẹ và em gái rời khỏi VN. Và đó cũng để trả lời thắc mắc trên của NT Henry Kissinger.

Kế hoạch hòa bình cho VN không tiến hành được, miền Nam lọt vào tay CSBV. Song HK đặc biệt là Đ/đốc Gayler tin tưởng qua tình cảm giữa Mỹ Dung và người cha Đ/sứ MTGP có thể giúp hồi hương những tù binh chưa được CS phóng thích năm 1973 và số phận hơn 2000 quân nhân Mỹ còn mất tích ở VN. Đ/đốc Gayler là giới chức cao cấp nhứt của Mỹ đã tiếp xúc sơ khởi với số tù binh vừa hồi hương, có thể ông được báo cáo còn nhiều tù binh chưa được phóng thích. Cuối 1975, dân biểu Sonny Montgomery tiểu bang Mississippi đến thăm VN. Qua vị dân biểu này Hà Nội cho biết họ không còn giam giữ người Mỹ nào cả. Tuy nhiên HK vẫn hy vọng qua trung gian của Mỹ Dung, giới lãnh đạo Hà Nội có thể thương thảo với HK về việc thiết lập bang giao.

Năm 1977 khi Tổng Thống Carter lên cầm quyền, HK tiếp tục đàm phán với Hà Nội việc bình thường hóa bang giao, từ tháng 5/1977 tại Paris. Hà Nội vẫn khăng khăng đòi HK số tiền 3.250 triệu đôla mà họ gọi là tiền bồi thường chiến tranh, coi đó là điều kiện tiên quyết trước khi đặt vấn đề thiết lập bang giao. Họ còn tổ chức gián điệp lấy cấp tài liệu mật của Mỹ và khuyến dụ bà Đặng Quang Minh hồi hương để hạ nhục Mỹ. Trong khi Bắc Kinh sẵn sàng thiết lập bang giao với HK vì lợi ích chung của hai nước. Việc này được tiến hành ngay sau khi Hà Nội phát động chiến dịch đánh tư sản, cải tạo công thương nghiệp, đụng chạm trực tiếp đến quyền lợi của hàng triệu người Việt gốc Hoa. BK coi hành động trên như cái tát đập vào mặt họ, khi CSVN bày tỏ thái độ thù nghịch với Tàu Cộng, thành lập nước Cộng hòa XHCN/VN theo đúng khuôn mẫu Liên Xô. Tháng Chín 1978, Hà Nội ký Hiệp ước Hợp tác hữu nghị với Liên Xô. Đầu năm 1979, Tàu Cộng chánh thức thiết lập bang giao với HK, và hơn một tháng sau họ đưa quân vượt biên giới tấn công CSVN.

Ba thập niên sau, tháng 4/2010, ông Nguyễn Dy Niên cựu Bộ trưởng Ngoại giao Hà Nội (2000-2006) bày tỏ sự luyến tiếc về việc đảng CSVN đã “thực hiện những chính sách mà đáng lẽ nếu tỉnh táo hơn, thì bây giờ VN đã mạnh lắm và cường thịnh lắm”. Ông nhận xét “Thời gian sau 30/4/1975 là cơ hội cực kỳ tốt mà chúng ta chậm khai thác. Mỹ muốn bình thường hóa quan hệ với ta. Nhưng rất tiếc là chúng ta còn dè dặt –cũng một phần do ràng buộc của lý luận- nên đã bỏ lỡ, không tận dụng được cơ hội ấy. Từ 1976 ta bắt đầu đàm phán với Mỹ, mình đưa ra cả một cục xương thì làm sao họ nuốt nổi, đó là bồi thường chiến tranh”. Đó là việc đối ngoại, ông Niên còn nêu lỗi lầm khác nữa là “thay vì khoan dung và khéo léo trong đối nội, chúng ta lại có chính sách như cải tạo công thương nghiệp. Những chính sách ấy từ khi áp dụng ở miền Bắc đã thấy trục trặc rồi, vậy mà vẫn tiếp tục thực hiện ở MN”. (www.nguyendynien/thoisu-dcpt)

Nghe cựu bộ trưởng Ngoại giao CSVN nói đến sự “ràng buộc của lý luận” và sự “tỉnh táo” khiến người viết nhớ buổi phỏng vấn của cô Ánh Nguyệt, đài RFI với một nhân chứng lịch sử lão thành là Giáo sư Vũ Quốc Thúc về quyển sách của ông vừa được xuất bản Thời Đại Của Tôi. G/sư Thúc nói rằng, những ai giữ mãi một ý kiến, không biết thích nghi trong việc ứng xử trước những hoàn cảnh đã thay đổi, thì chỉ có người điên mà thôi, nhẹ nhất là cố chấp, nặng hơn là cuồng tín.

Lý luận của những người CS, trước cũng như nay, không bao giờ thay đổi, thì làm sao họ có thể tỉnh táo được, dù Milovan Djilas -lãnh tụ CS nổi tiếng của Nam Tư đã thức tỉnh, từng cảnh cáo “Cộng sản là một thế lực suy tàn. Có người còn nói đó là một xác chết, nhưng là một xác chết có thể lôi ta cùng xuống mồ với nó”.

Lê Quế Lâm

Hãy liên lạc với chúng tôi, mọi bài vở đóng góp xin vui lòng gởi về NguoiVietTuDoRg@Yahoo.Com hoặc liên hệ bằng điện thoại Mobil :

01577. 77 22 459 .Chúng tôi luôn hân hạnh được phục vụ quý vị.

Xin quý vị vui lòng Klick vào Link sau đây để mở sang trang chủ:

www.TrangChuRgBg.Blogspot.Com

Đặng Mỹ Dung

Ngàn Giọt Lệ Rơi là tựa cuốn hồi ký của chị Đặng Mỹ Dung (Yung Krall). Gia đình của chị Dung là một trong những gia đình bị cuộc chiến tranh ý hệ Quốc-Cộng chia cắt làm hai. Bố chị Mỹ Dung - ông Đặng Văn Quang giữ chức đại sứ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tại Liên Xô. Anh lớn nhất của chị Mỹ Dung là một sĩ quan bắn tên lửa của miền Bắc. Em út chị Mỹ Dung là sĩ quan lái trực thăng trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Còn chị Mỹ Dung? Chị Mỹ Dung lại trở thành nhân viên tình báo của cơ quan tình báo CIA. Chị Mỹ Dung chính là điệp viên đã bắt được gián điệp cộng sản Trương Đình Hùng vào cuối thập niên 70 khi tên này lấy cắp tài liệu mật của Bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ. Vụ án gián điệp Trương Đình Hùng nổi tiếng dưới thời tổng thống Carter. Đinh Bá Thi - đại diện cho cộng sản Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc đã phải bị triệu hồi sau vụ bắt gián điệp Trương Đình Hùng.

Một Ngàn Giọt Lệ Rơi - Câu Chuyện Của Một Nữ Điệp Viên CIA Người Việt có Bố đẻ là cán bộ đảng viên cao cấp. Đại Sứ Việt Cộng MTGPMN tại Liên Xô


Một câu chuyện thật nhưng ly kỳ như trinh thám về cuộc đời của nữ điệp viên CIA Đặng Mỹ Dung được bà kể lại trong 412 trang sách của cuốn tự truyện A Thousand Tears Falling (Ngàn giọt lệ rơi)


Cuối năm 1995, nhà xuất bản Longstreet Press, Atlanta, Georgia, cho phát hành ấn phẩm " Một Ngàn Giọt Lệ Rơi, A Thousand Tears Falling " của một phụ nữ Việt khác tên Yung Krall tự Đặng Mỹ Dung , với lời giới thiệu nồng nhiệt của Griffin B. Bell , nguyên Bộ trưởng Tư pháp thời Tổng thống Carter . Quyển tự thuật này, dày 412 trang, khác với tác phẩm " When Heaven And Earth" về nhiều khía cạnh : tác giả là một phụ nữ thuộc giới trung lưu gốc
Cầnthơ , trình độ trên trung học, sinh năm 1946, hoạt động trong ngành tình báo CIA, đồng thời là nhân viên của FBI . Điểm đáng lưu ý : Thân phụ của Yung Krall là Đặng Quang Minh , một thành viên cấp cao trong Đảng CSVN và Đại sứ của Chính phủ Giải Phóng Miền Nam tại Bắc Âu và Liên Xô. Năm 1968 , tác giả lập gia đình với Trung úy phi công Hải quân Mỹ John J. Krall . Sau khi bất chấp hiểm nguy giúp chính quyền Hoa kỳ phá vỡ năm 1978 , mạng lưới tình báo Việt cộng tại Mỹ gồm có Đinh Bá Thi, Trương Đình Hùng và đồng bọn, tác giả từ nhiệm và về sinh sống tại Atlanta . Đương sự đã phải viết thơ khiếu nại thẳng với Đề đốc Stansfield Turner, Giám Đốc CIA , và mặt khác , nhờ Văn phòng Luật sư Quinlan J. Shea Jr , Columbia, Maryland, căn cứ vào Luật Thông tin Tự do , quyết liệt tranh đấu nhiều tháng mới được phép thực hiện quyển hồi ký MNGLR .
Cả hai , Griffin Bell và Quinlan Shea , nơi trang 8 và 142 trong sách , đều đề cao Yung Krall như " truly a great American …a genuine American hero " . Phê bình về các tác phẩm tả thực bi kịch VN, Gs Douglas Pike, thuộc Đại học Berkeley, viết " Yung Krall’s A Thousand Tears Falling is one of the best of this genre, if not the best " . Ngày 19. 4. 1996 , tại buổi lể ở Kennesaw State College , GA , Ủy ban Georgia Author of the Year Committee đã bầu Đặng Mỹ Dung một trong 45 tác giả đặc sắc nhứt trong năm . Ngày 18 tháng 4 sắp đến, Đại hội toàn quốc Society Daughters of The American Revolution, Hoa kỳ, sẽ tặng cho đương sự tại Hoa Thịnh Đốn huy chương danh dự về thành quả phục vụ cộng đồng và đất nước . Giới Lập pháp và các hội đoàn cựu chiến binh Mỹ củng thường mời Yung Krall trình bày về vấn đề VN. Để giúp đọc giả Việt nhận định về mối nguy nan do hoạt động tình báo của CS Hà nội tạo ra tại Hoa kỳ , nhứt là đối với cộng đồng di cư chúng ta , tác giả bài này đã phỏng vấn Yung Krall về quyển sách của cô và nhiều chi tiết bên lề. Xin tóm lược sau đây các điểm chính yếu .

Tình phụ tử sâu đậm không hàn gắn nổi những dị biệt chính trị giữa cha con .

17 chương đầu của hồi ký MNGLR dành để trình bày cuộc sống của gia đình tác giả từ 1945 đến 1954 trong chiến khu Nam bộ và từ 1954 đến 1975 trong vùng quốc gia . Thân phụ của Yung Krall xuất thân là một giáo viên, tên thật Đặng Văn Quang, sau đổi thành Đặng Quang Minh, sinh năm 1909 tại Vỉnh Long, tham gia hoạt động cho CS từ lúc 18 tuổi , bị Pháp bắt giam năm 1930 và sau 1940, đày ra Côn đảo cho đến 1945 . Thân mẫu của Yung Krall là bà Trần Thị Phàm , có 7 người con , hai trai và năm gái. Yung Krall là người con thứ tư trong gia đình. Trước Hiệp định Genève, Đăng Quang Minh đắc cử Dân biểu Cần thơ trong Quốc hội CS và năm 1954 , rút về Bắc Việt để làm việc trong ngành ngoại giao .

Trong 10 năm chống Pháp và Chính phủ quốc gia, Đặng Quang Minh cùng gia đình đổi vùng thường xuyên , từ Ông Dẹo, Ba Ngọn ( Cầnthơ ) qua Kim Quy, Cảng Chú Hàng ( Chương Thiện ) để tổ chức kháng chiến. Yung Krall kể lại rằng cha cô lắm lúc vắng mặt nhiều tháng, có lẽ qua Thái lan mua võ khí, và khi về nhà thì thường phãi cải trang ẩn núp để tránh Mật thám Pháp truy lùng . Tại Ông Dẹo, Lê Đức Mai , sau này đổi tên thành Mai Chí Thọ , em ruột của Lê Đức Thọ, thường lui tới với gia đình cô. Cuối 1953, Lê Đức Thọ , từ Hà nội vào, có đến chủ tọa một phiên nhóm cán bộ tại Cảng Chú Hàng .

Ông Đặng Quang Minh cán bộ cao cấp của Cộng sản VN tại Liên Xô
Sau Hiệp ước Genève, Đặng Quang Minh tập kết ra Bắc với Khôi, đứa con trai đầu lòng 18 tuổi. Đặng Mỹ Dung - lúc đó vừa lên chín - cùng với mẹ và chị em về tá túc tại nhà ông ngoại ở Long Thạnh , Cầnthơ . Trong gia đình của Dung, các chú và cô đều hoạt động cho CS nhưng mẹ và ông ngoại, thủ cựu, thì lại không chấp nhận xã hội chủ nghĩa bất nhân . Sự dị biệt về lý tưởng , tuy nhiên , không làm sứt mẻ tình thương kính lẩn nhau . Vì biết không thuyết phục nổi vợ con thay đổi lập trường , Đặng Quang Minh không tìm cách gây áp lực quá đáng . Trong suốt cuộc chiến VN, mỗi gia tộc là một thảm cảnh phân chia - hình ảnh chung của đất nước ! - với những thân nhân sanh Bắc tử Nam hay trái lại. Gia đình của tác giả MNGLR không phải là một biệt lệ. Trước khi tập kết, Đặng Quang Minh thận trọng cho thủ tiêu tất cả hình ảnh chụp chung với y, lập khai sanh khác cho các con , ghi cha " vô danh " và sửa tờ khai gia đình. Y hứa hai năm sẽ trở lại. Không ngờ hai mươi mốt năm sau , về nơi sinh quán thì gia đình đã bỏ " thiên đường CS " và vĩnh viễn ra đi .

Từ 1954 cho đến ngày Miền Nam sụp đổ, Đặng mỹ Dung và gia quyến sống lang bạt , hụp lặn trong mọi thử thách vât chất, an ninh và tinh thần. Dung lớn lên như cỏ dại ,với mặc cảm ray rứt của một người con không cha , "cha vô danh" mặc dù biết rõ cha còn đó, bên kia vỉ tuyến . Xong Trung học tại trường Phan Thanh Giản Cần Thơ năm 1964, lúc 18 tuổi , Dung liền tìm việc làm để giúp đỡ gia đình . Nhờ xông xáo, xốc vác , kiên nhẫn - và cả may mắn - Dung được Phòng 5 Tâm lý chiến Quân đội VNCH của Đại úy Nguyễn Đạt Thịnh, Vùng 4 Chiến thuật , tuyển vào chân phóng viên . Nơi đây, Dung tập viết lách và thu thập kinh nghiệm về chiến tranh tâm lý . Có một lúc , Dung bị An ninh Quân đội điều tra nhưng mọi việc không đi đến đâu. Thân mẫu của Dung phải dẹp tiệm may và dời về Sàigòn sinh sống sau một cơn bịnh nặng,. Dung tim ra được một job kế toán - điện thọai viên tại Đông Nam Á Ấn quán trả lương chết đói. Dung thất vọng , một mình trở lại Cần Thơ xin tái phục vụ tại Phòng Tâm lý chiến cũ. Không đầy một năm sau, Dung nhớ gia đình và thấy tương lai không có triển vọng nên trở lên Sàigòn , nhờ hai người chị , sẵn làm cho Mỹ , giới thiệu vào giúp việc tại Trung tâm BOQ , Bachelor Officers’ Quarter. Tại đây, Dung gặp Trung úy Hải quân John James Krall và sau vụ tấn công Tết Mậu thân 1968, cả hai rời VN về Monterey , Californie để làm đám cưới. Lúc đó, hai người chị của Dung đang sống tại Mỹ vả ba chị em đã trở thành công giáo . Hải Vân, người em trai của Dung, 21 tuổi , tình nguyện gia nhập Không quân và được Bộ Quốc phòng VNCH gởi tu nghiệp tại Lacland, Texas. Đầu tháng giêng 1971, Hải Vân tử nạn trong một chuyến bay tập dượt gần Savannah, Georgia. Năm 1973, Yung Krall về thăm gia đình tại Sàigòn và nhân dịp này, nhận góp phần bảo trợ Cô nhi viện Minh Trí tại Gòvấp . Đầu 1975, John Krall đổi qua Fleet Weather Central , Hawai .Bất thần một buổi sáng , Yung Krall nhận một cú điện thoại từ Paris của một người Pháp xưng tên Jean Sagan, bạn thân của Đặng Quang Minh , báo tin Miền Nam VN sắp sụp đổ và thúc Yung Krall di tản gấp mẹ và em ra khỏi xứ. Yung Krall sực nhớ lại ba năm trước, có nhận được cũng của kẻ trung gian bí mật này một bao thơ (không ghi tên người gởi ) , củng từ Pháp, chuyển một số hình của Đại sứ Đặng Quang Minh chụp ở Hànội chung với Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh… và tại Mạc tư khoa và Mông cổ 3.

Tình nguyện làm gián điệp để di tản gia đình. Tái ngộ với cha để chia tay vĩnh viễn .

Tình thế nguy kịch sau ngày Ban Mê Thuột và Quảng Trị thất thủ . Chị của Yung Krall , kết hôn với một sĩ quan Hoa kỳ tên Wray Allan Hall , không chịu tiết lộ cho chồng biết lai lịch của cha . Thiếu tá John Krall xin nghỉ phép 30 hôm , liều bay cấp bách về Sàigòn vận động đem nhạc mẫu và em vợ qua Hoa kỳ. Trên nguyên tắc, chuyến ra đi này bất hợp pháp vì lúc đó, Ngũ Giác Đài cấm ngặt sĩ quan Mỹ vào VN nếu không có công vụ lệnh của cấp chỉ huy trực tiếp .Yung Krall sốt ruột vì không biết việc gì xảy ra cho chồng và gia đình tại VN nên nghĩ ra giải pháp táo bạo : điện thoại cầu cứu thẳng vói Đề đốc Gaylor, Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương .Sau nhiều khó khăn, Dung được nói chuyện, xác nhận chức vụ của cha, trình bày nguy cơ của mẹ và luôn cả cuộc điện đàm với Jean Sagan. Đề đốc Gaylor liền cho Thiếu tá Hải quân Dave Smith tiếp Dung hỏi thêm chi tiết. Trong lần gặp gỡ này, để chắc ăn, Dung đánh lá bài chót : cô tình nguyện " cộng tác với chính phủ (HK) nếu và khi nào cần đến " . Đề nghị có hiệu quả mau chóng. Không đầy 24 giờ sau, một nhân viên CIA mặc thường phục, tên Bob Jantzen, đến tận nhà , sốt sắng ghi đầy đủ lý lịch của thân nhân của Yung Krall. Bob cũng hứa thông báo cho Tòa Đại sứ HK tại Sàigon biết sự hiện diện của John Krall ở VN. Tham vụ ngoại giao Grant Ichikawa , nhờ thế, liên lạc được với John để sắp xếp mọi việc . Ngày 10.4.1975, John Krall yên tâm , trở về Mỹ trước. Vài hôm sau, mẹ và hai em vợ đến an toàn tại phi trường Honolulu .

Đầu tháng 6.1975, Bob Jantzen cho Yung Krall gặp sĩ quan đặc trách , case officer Robert Hall (hay Rob ) là người có phận sự trong hệ thống CIA theo dõi công tác , ra chỉ thị và nhận báo cáo . Rob lập một hồ sơ đầy đủ về Yung và đề nghị Yung theo học một khóa huấn luyện tại trung tâm Langley ở Washington . Ngày 20 .7.1975, tại Hickam, Yung vui mừng đọc trong báo Japan Times một tin ngắn cho biết ngày 5 tháng 8 , hai phái đoàn Hà nội và Mặt trận giải phóng Miền Nam do Đỗ Xuân Oánh và Đặng Quang Minh hướng dẩn sẽ tham dự Hội nghị quốc tế chống bom nguyên tử và khinh khí tại Tokyo . Yung , mừng tủi lẫn lộn , liền bay qua Nhựt với đứa con trai Lance , 5 tuổi, để gặp lại cha sau trên 20 năm xa cách . Có 2 diểm đáng ghi trong cuộc tái ngộ này : 1 ) Đặng Quang Minh nghi quyết đế quốc Mỹ đã âm mưu sát hại con trai là phi công Hải Vân trong phi vụ tại Georgia để trả thù Minh theo CS. Minh không tin lời cải chính của Yung đây chỉ là tai nạn . 2 ) Trước mặt nhân viên CS, Đặng.Quang.Minh không dám công nhận con và cháu ngoại. Y giới thiệu họ là " người cùng làng ! ".Yung buộc lòng phải đóng trò xưng hô " Bác, Cháu " với cha . Trong những lần nói chuyện riêng với thân sinh về một số vấn đề chính trị, Yung khổ tâm nhận thấy một thế giới chia cách hai người và thổ lộ sự thất vọng . Đ.Q. Minh an ủi khi chia tay : " Ba không tìm cách thay đổi con, nhưng xin con đừng dày xéo những xác tín của Ba …Nếu con thoải mái với điều con tin tưởng thì Ba cũng mừng thấy con hài lòng !".( trang 247, 254, hồi ký ).

Trung tuần tháng 9.1975, Yung làm thủ tục đem mẹ qua Paris gặp thân phụ trong dịp ông công tác tại Pháp. Trước ngày khởi hành, xếp Xịa Jerry Parker tiếp Yung tại một nông trại Virginia và ngỏ ý muốn giúp sĩ quan VC Đặng Văn Khôi. đào thoát khỏi Bắc Việt . Khôi là anh cả của Yung, chuyên về tên lửa , guided missiles, từng được huấn luyện tại Trung quốc và Liên Sô . Rob được lịnh qua Paris theo dõi việc làm của Yung . Phan Thanh Nam, xử lý thường vụ Tòa Đại sứ GPMN đặt ở 44 Đại lộ Madrid, Neuilly -sur- Seine, chỉ định "sinh viên " Phạm Gia Thái lái xe đưa mẹ con Yung về ngụ tại một ngôi nhà ở Verrières-la- Buisson. Đồng thời , Thái có phận sự làm hướng đạo cho hai người khách. Vì không muốn Thái dò xét hành tung của mình, Yung từ chối , viện lẽ đã thuê phòng tại khách sạn . Nam được Bắc bộ phủ gài trong MTGPMN . Không để mất thời giờ, vài hôm sau, Nam gặp riêng Yung để tìm hiểu về chức vụ và khả năng chuyên môn của John Krall trong Quân đội HK, đề nghị Krall giúp Hànội, khuyến dụ Yung về Mỹ vận động dư luận quần chúng đòi Hoa Thịnh Đốn bồi thường 3,5 tỳ đô cho VN và yêu cầu mẹ Yung - nếu không về Việt Nam - thì ít nữa cũng theo Đs Minh qua Moscou vì Chính phủ Xô viết " hiến cho vé máy bay Aéroflot miễn phí " . Nam không thuyết phục được thân mẫu của Yung vì bà dư biết chính quyền CS không tha thứ vợ một cán bộ cao cấp từ chối tập kết, bỏ nước ra đi và hơn nửa , gả hai con gái cho " Mỹ ngụy". Vả chăng, Đs Minh không ngại cho vợ biết điểm này. Những ngày vui mừng tái ngộ qua mau. Mẹ Yung quyết định cho Nam biết dứt khoát bà phải trở về Hoa kỳ để săn sóc gia đình và thoái thác dự buổi cơm do Võ Văn Sung, Đại sứ Bắc Việt, khoản đãi . Bà cảm thấy nhẹ nhõm khi lên máy bay về HK vì những hôm chót , nhiều kẻ lạ mặt lui tới nơi địa chỉ cư ngụ , làm bà lo sợ bị bắt cóc.

Võ Văn Sung mời Yung đến sứ quán, tỏ ý muốn Thiếu tá John Krall " tiếp một tay với cha vợ " , cho biết Việt cộng có một số " cảm tình viên " tại Honolulu và đề nghị Yung tiếp xúc làm việc với người cầm đầu Hội Việt Kiều Yêu Nướcï tại San Francisco . Trở về Hawai, Yung Krall được CIA chỉ thị dời cùng chồng lên thủ đô Washington. Hướng công tác không còn chú trọng đến nạn nhân của CSVN và từ nay, nhắm vào hệ thống chỉ huy CS ở nước ngoài. Yung được bố trí đóng vai trò " gián điệp nhị trùng " để lấy tin. Môt vai trò tế nhị và nguy hiểm mà Yung chấp nhận .Yung trở qua Paris vài tháng sau để bắt liên lạc với Huỳnh Trung Đồng, Chủ tịch Hội Liên hiệp Việt kiều . Trong nhiều tuần lễ , Đồng dẫn Yung viếng trụ sở và thư viện chứa đầy tài liệu tuyên truyền ; tham dự những buổi học tập của cán bộ và gặp các phần tử thiên tả Việt - Pháp ; và trao cho Yung nhiều ấn phẩm Anh - Việt để phổ biến tại Hoa kỳ . Đặc biệt, Đồng dặn Yung tiếp xúc với cán bộ Nguyễn Thị Ngọc Thoa, người cầm đầu một hệ thống tình báo CS tại Hoa Thịnh Đốn. Sĩ quan đặc trách Rob Hall - khi được thông báo mọi việc - ngăn Yung gặp Thoa vì cho rằng công tác phản gián là phần vụ cảnh sát của FBI , không liên hệ đến CIA chỉ chú trọng về chính trị . Y hăm sẽ bãi nhiệm Yung nếu bất tuân lịnh: Không một ai được phép làm việc cùng một lúc với CIA và FBI. Yung bướng bỉnh cãi lại rằng cô làm việc không lương cho CIA từ 9 tháng nay, vỉ thế không bị ràng buộc bởi hợp đồng nào và cô sẽ nhờ chồng tường trình lên Đề đốc Bobby Inman , Giám đốc Cục Tình báo Hải quân . Lúc đó, John Krall là nhân viên Phòng Liên lạc Quốc ngoại trong cơ quan này. Vài hôm sau. Đề đốc Inman tiếp Yung . Cô trình bày nhu cầu cấp thiết phá vỡ lưới tình báo VC tại HK. Inman hứa sẽ thảo luận với Clarence Kelly, Giám đốc FBI. Tháng 6.1976, nhân viên FBI Bill Fleshman và sĩ quan đặc trách CIA Bill Reardon được chỉ định làm việc với Yung Krall , từ nay một gián điệp có hợp đồng .

Vụ án Đinh Bá Thi , Trương đình Hùng và đồng bọn.

Bức thơ giới thiệu của Huỳnh Trung Đồng giúp Yung Krall gặp Nguyễn Thị Ngọc Thoa dễ dàng tại một căn gác nhỏ ở 18th street N.W. thủ đô Washington . Địa chỉ này là trung tâm phát hành nhiều tài liệu tuyên truyền CS và nguyệt san Người Việt Đoàn Kết mỗi tháng in 5000 số, với sự giúp đỡ của LM Trần Tam Tĩnh, Gia Nã Đại . Thoa rất kín đáo , sống kham khổ và có một người chồng Mỹ thiên tả nhưng không ở tại đây. Hệ thống của đương sự gồm có Việt kiều thân Cộng, không đông, có căn bản học thức, phản chiến trong những thập niên 60 / 70 và hoạt động khá hăng hái . Sinh viên Trương Đình Hùng , con của Ls Trương Đình Dzu, nguyên ứng cử viên Tổng thống chống Thiệu năm 1967, là một trong các người này. Thoa và Hùng thường nhờ Yung chuyển nhiều bao thơ mật cho Hùynh Trung Đồng và Nguyễn Ngọc Giao ở Paris. Mổi lần, FBI và CIA được Tòa án cho phép chụp ảnh tài liệu để lưu trử . Tháng 4. 1976, nhờ Võ Văn Sung giới thiệu ,Yung bắt liên lạc được với Nguyễn Văn Lũy ,Chủ tịch Hội Việt kiều Yêu nước tại San Francisco và Lũy cho Yung gặp hai " đồng chí đắc lực" học tại Virginia Tech , Christianburg, VA . Sĩ quan đặc trách Rob Hall được tái chỉ định trở về cộng tác với Yung . Cuối 1976, Yung điên thoại xin đến thăm Đinh Bá Thi, Đại sứ CS tại Liên Hiệp Quốc ở New York với một bao thơ tài liệu của Trương Đình Hùng. Thi vui vẻ nhận lời vì quen thân với Đs Đặng Quang Minh. Chẳng những thế, Thi còn mời Yung Krall đến ở tại Sứ quán . Vì xông vào hang cọp, Yung thông báo trước cho CIA / FBI biết : nếu quá 3 ngày, không nhận được tin , là có chuyện nguy . Nhân viên sứ quán vỏn vẹn gồm có Phạm Ngạc, Tham vụ phụ tá ; Phạm Dương, chuyên viên kinh tế ; Hưng, gác dan kiêm đầu bếp ; và Vân, tài xế kiêm vệ sĩ . Tất cả sống chung với nhau , nhịn ăn điểm tâm " để tiết kiệm ", thường xuyên nghe ngóng thời sự trên 3 máy truyền hình và không được phép rời Nữu ước quá 25 dặm . Theo Yung, Đinh Bá Thi tánh tình cởi mở và không quá khích. Y than vợ đang bịnh nặng ở VN và không được Chính phủ cho xuất ngoại. Nhân viên ngoại giao không có quyền đem theo gia đình để tránh nạn đào ngũ . Thi thông cảm nỗi khó khăn thân mẫu của Yung gặp phải nếu trở về VN. Thi buồn rầu nhận định : " Một khi chế độ không đem lại hạnh phúc cho dân và không đưa đất nước tiến tới một tương lai hứa hẹn thì phải thối lui và tự đặt câu hỏi : Vì sao ? " (trang 312, hồi ký ).

Sau khi CIA trắc nghiệm bằng máy dò sự thật, polygraph test , theo thủ tục định kỳ, Yung Krall trở lại Paris, tổng hành dinh tỉnh báo VC ở hải ngoại. Mổi chuyến đều có Rob Hall đi kèm, để bảo vệ an ninh và vì lý do nghề nghiệp . Tuy đại diện cho MTGPMN, Phan Thanh Nam thiên hẳn về chủ trương của Hà nội xúc tiến thống nhứt gấp VN. Nam khuyên Yung không nên lộ diện với Việt kiều cánh tả để dể làm việc mật với y. Nam còn xúi Yung bề ngoài vung vít chống Cộng, để đánh lạc hướng . Yung cũng bị Phòng Nhì Pháp theo dõi. Phòng thuê của cô tại khách sạn bị lục soát , điện thoại bị ghi âm . Yung phản đối , viên Giám đốc xin lỗi , nói rằng có sự hiểu lầm . Vì tính cách hệ trọng của kỳ công tác này, Yung được gặp Dan Andrew, chỉ huy khu vực của CIA . Huỳnh Trung Đồng đề nghị Yung đứng ra thành lập một Hội Việt - Mỹ tại HK vì các nhóm Việt kiều Yêu nước ở Hoa Thịnh Đốn, San Francisco và nơi khác chống đối lẫn nhau. Chính Trương Đình Hùng ( tự David Trương ) nhiều lần khuyên Yung không nên liên hệ với những nhóm " ăn hại " vừa kể. Dù sao, theo Yung, những tổ chức này đã thu được vài kết quả : móc nối với một số trí thức và khoa học gia HK hô hào giúp chính quyền Hànội. Gs Edward Cooperman, thuộc Đại học Fullerton, Californie, sáng lập viên của Ủy ban US - VN Science & Technology Committee, là một thí dụ. Yung xâm nhập vào hoạt động của Ủy ban . Một thời gian sau, xảy ra hai vụ 1 -Trần Văn Bé Tư mưu sát hụt KS Trần Khánh Vân, thành viên của Ủy ban nói trên và 2 - sinh viên Lâm Văn Minh hạ sát Cooperman . Cộng đồng người Việt rất xao động về chuyện thanh toán này . Mặt khác, lúc ở Paris, Yung củng đã lui tới với vài phần tử trước hợp tác với MTGP, nay bất mãn : Ký giả Cao Minh Chiếm và kỹ sư Huỳnh Ngọc Châu , rể và con của cố Huỳnh Ngọc Nhuận, một triệu phú ở Giađịnh từng chứa chấp tại nhà dược sĩ Hồ Thu và nhiều nhân vật kháng chiến. Sau 1975, bà Nhuận bị CS giam cầm và tịch thu tài sản .

Kể từ mùa xuân 1977, Yung bám sát hoạt động của Trương Đình Hùng . Hùng nghịch với Nguyễn Văn Lũy và làm việc thẳng với Phan Thanh Nam ( Paris ) vả Đinh Bá Thi ( New York ), đồng thời liên lạc trực tiếp với Hànội. Hùng tâm tình với Yung rằng , với khả năng sẵn có và giao thiệp rộng , y mơ ước ngày kia , được " Trung Ương " giao cho trách nhiệm điều khiển " hệ thống thông tin quốc ngoại CS " ở Hoa Kỳ , tương đương với vai trò giám đốc CIA Việt Nam ( ! ) . Mộng xa vời , chưa đạt thì xộ khám . Đúng vậy, Yung liền thông báo cho Clarence Kelley, Giám đốc FBI và Thứ trưởng Ngoại giao Warren Christopher hay khi David Trương khoe với cô rằng y " có thể có những gì y muốn ", nhờ nắm được một nhân vật (HK )" vô ra ở tầng thứ 7 của Bộ Ngoại giao "( trang 336, hồi ký ). Cuối tháng 4.1977, Huỳnh Trung Đồng , vừa được thu nạp vào đảng CS sau một cuộc víếng thăm Hànội , mời Yung Krall qua Paris " để chào " Thủ tướng Phạm Văn Đồng công du tại Pháp. David Trương nhờ Yung trao cho Phan Thanh Nam hai bao thơ " tối mật / tối khẩn " . Tất nhiên, FBI chụp ảnh tất cả tài liệu bên trong. Huỳnh Trung Đồng niềm nở chào đón Yung ở Paris và giới thiệu với 4 cán bộ VC, trong đó có một phụ nữ tên Vân, nguyên phụ tá của Ngoại trưởng Nguyễn Thị Bình tại Hội nghị Paris. Tất cả tỏ vẻ vui mừng nhận được tài liệu của Trương .Đình. Hùng để cho phái đoàn CS Việt nhóm hôm sau với đại diện của Washington về " vấn đề bồi thường chiến tranh " . Giờ chót, không rõ lý do , Huỳnh .Trung. Đồng xin Yung đừng đến phi trường Orly đón Thủ tướng Đồng và dự buổi tiêp tân . Tại HK, chiến dịch " Operation Magic Dragon " xúc tiến để tóm trọn gói tổ chức tình báo Việt Cộng. FBI ghi âm được đầy đủ điện đàm giữa Trương.Đình.Hùng và Ronald Louis Humphrey , một nhân viên của USIA, US Information Agency . Với sự đồng ý của Tổng thống Carter và giấy phép của Bộ trưởng Tư pháp Griffin Bell, FBI đặt máy thu hình bí mật trong văn phòng của Humphrey và bắt quả tang đương sự trộm tài liệu bí mật quốc gia để chuyển cho Hùng. Trong bức thơ riêng do Phan Thanh Nam nhờ Yung đưa cho Hùng, Nam viết : "Hoan nghinh chương trình làm việc của anh…Có những cố gắng lừa đảo và bịp lẫn nhau ". Hùng sống thanh bạch trong một căn phố nhỏ, đầy sách và báo , ở đường F. Street và làm việc trong một tiệm gởi thư tín , đường M Street, Hoa Thịnh Đốn . Khi Yung đến từ giã Hùng để đi Luân Đôn , nhiệm sở mới của chồng chuyển về Bộ Tư lịnh Hải quân HK tại Âu châu , Hùng đưa cho Yung một bì thơ đựng tài liệu " lấy từ Quốc hội " để nhờ trao cho Huỳnh Trung Đồng . Hùng nói : " I ran over to the Congress to get a package of that stuff " . Đây là bao thơ cuối cùng , trước ngày Hùng bị bắt .

Yung Krall thử thi hành một kế hoạch chót trước khi thôi việc với CIA - FBI : thuyết phục thân sinh từ nhiệm và giúp người anh cả là sĩ quan VC Đặng Văn Khôi trốn khỏi VN. CIA tặng cho Khôi 10.000 đô để trang trải chi phí. Yung qua Paris nhờ Đs Võ Văn Sung can thiệp với Bộ Ngoại giao CS cho Đặng Quang Minh đến Pháp gặp vợ , khai đang đau nặng . Sung cho biết đến nay, chính phủ Hànội không cho cán bộ nào, dù cao cấp, xuất ngoại vì vấn đề riêng tư . Yung đánh liều gởi hai bức thơ thỉnh nguyện cho Tổng Bí thơ Lê Duẫn và Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh , kèm theo giấy chứng bịnh ( giả ) của mẹ .Bất ngờ, một thời gian sau, Lai Xuân Chiêu , xử lý thường vụ Tòa Đại sứ VC tại Anh quốc , cho Yung hay Đs Đặng Quang Minh, trong dịp công du tại Moscou, sẽ ghé Luân Đôn. Được thông báo, Rob (CIA ) và Bill (FBI ) đề nghị Yung hãy khuyên cha xin về hưu và di cư qua Hoa kỳ . Nếu Đặng Quang Minh cương quyết từ chối, họ sẵn sàng giúp tay để tổ chức bắt cóc . Ngày 13.12. 1977, Đs Minh đến phi trường Heathrow. Ban ngày , Đs Minh ở tại nhà Yung , chuyện trò và ăn uống với vợ con nhưng ban đêm lại nhứt quyết đòi về ngủ tại phòng của sứ quán dành riêng cho khách. Nói là tuân hành quy tắc chung ( của CS ! ). Khi nghe Yung năn nỉ về vấn đề xin vể hưu để đoàn tụ với gia đình , Đs Minh lắc đầu , trả lời : " Đảng còn cần , không thể trốn nhiệm vụ ! ". Đs Minh có vẻ lo sợ. hoảng hốt khi Yung - quá thất vọng - nói đùa :" Con sẽ bắt cóc Ba ! ". Cuối cùng , Yung bỏ qua ý định bắt cóc vì biết giải pháp này sẽ vĩnh viển đốt cháy cuộc đời của cha , chỉ biết có Đảng. Nơi trang 382 , Yung Krall chán nản kết luận : " Phải có gì hơn phép mầu mới thắng nổi sự mê tín lý tưởng và lòng chung thủy vô biên của cha tôi đối với chủ trương của ông ! ".Mẹ Yung thấy con khổ sở bèn vỗ về :" Không thể thay đổi đất nước và dân Việt bằng cách tố khổ suông CS trước mặt Ba . Đừng hành hạ Ba vì kinh nghiệm đau đớn của con. Không phải chỉ Ba con mà là cả chế độ đã không làm được gì tốt cho dân tộc ..Mẹ biết con khổ, Con còn trẻ , rồi mọi vết thương sẽ hàn gắn . Ba con không còn thời gian như con ". Khi tỉễn cha lên máy bay, Yung cảm động bắt tay từ giã, với lời thú :" Con chống Chính phủ CS. Con không chống Ba ! ". Đặng Quang Minh trả lời , lạnh lùng : " Con là con , Ba là Ba. Ba không chịu trách nhiệm về những gì con làm ! ". (trang 385. 395. Hồi ký ).

Đây là cuộc hội ngộ chót . Yung Krall quyết định giải nghệ mặc dù về thành quả công tác, Yung được thượng cấp đánh giá như một spy catcher, super spook , superstar spy… CIA tăng nguyệt phí lên 1, 200 đô , một giá rẻ mạt , sánh với bao nhiêu công sức và hy sinh ! . Tiền không phãi là mục tiêu . Yung không thiết tha gì nữa . Cô trả lòi Tony Lapham, Cố vấn CIA, và John Martin, Luật sư của Bộ Tư pháp, rằng cô sẵn sàng làm chứng (nhân chứng chính, key witness) khi Tòa xử vụ án gián điệp VC . Quyết định này gây nguy hiểm cho cô và gia đình. Mặt khác, sẽ chấm dứt liên hệ từ nay với CIA và FBI vì cô lộ diện . Nhưng không sao ! .Ngày 31.1.1978, FBI bủa lưới bắt Ronald Humphrey, Trương Đình Hùng và đồng bọn . Một số can phạm khác bị truy tố nhưng không bị bắt : Huỳnh Trung Đồng, Phan Thanh Nam , Nguyễn Ngọc Giao và Đinh Bá Thi . Trong hồ sơ , Yung cung khai dưới bí danh Keyseat , ngụ tại 8 Regal Lane, Regent Park, London. Giới truyền thông HK ầm ĩ tung tin về vụ án này. Hùynh Trung Đồng gởi cho Yung Krall một tấm thiệp căn dặn " hãy đề phòng " vì tới giờ chót, y vẫn không ngờ Yung là gián điệp nhị trùng. Mãi đến ngày 17.3.1978, công chúng mới biết được lý lịch thiệt của Keyseat . Yung liền nhận được nhiều thơ nặc danh hăm dọa và sỉ vả là " kẻ phản bội ". CIA củng không hài lòng vì mất một cộng tác viên đắc lực. Nỗi khổ tâm của Yung là không biết hậu quả gì xảy ra tại VN cho cha và anh ?. Tuy nhiên , cô không hối tiếc đã giúp lật tẩy CS phá hoại tại Hoa kỳ, đất dung thân của gia đình cô. Những tâm tư này được gởi gấm trong một hồi ký đầy kỷ niệm và nước mắt : " Một Ngàn Giọt Lệ Rơi " . Yung Krall đã biến các dày xéo của bản thân và đất nước thành một hành động tích cực để đấu tranh cho dân chủ .

Trong những lần tiếp xúc riêng , tác giả Yung Krall đã trả lời như sau vài câu hỏi của chúng tôi : 1 ) - Ngày 8.7.1978, Humphrey và Trương Đình Hùng bị Tòa phạt mỗi người 15 năm tù ở về tội làm gián điệp. Humphrey có vợ Việt . cưới khi y phục vụ tại VN. Hùng có vợ Mỹ và định cư tại Âu châu sau khi thụ án Đs Đinh Bá Thi bị trục xuất khỏi HK, chết trong một tai nạn xe hơi ( hình như do CS tổ chức vì nghi Thi " chệch hướng " ). 2 ) Đs Đ.Q. Minh là người của Trung ương đảng bộ gài trong MTGPMN nên vẫn tại chức đến ngày qua đời tại Sàigòn năm 1986, vì bịnh đau tim. Chức vụ chót là Cố vấn Bộ Ngoại Giao CS. Có liên lạc với gia đình nhưng tuyệt nhiên không hề đề cập đến vụ án . 3 ) Sau khi Tòa HK tuyên xử, để đánh lạc hướng dư luận , báo chí CS viết rằng " con của một đảng viên cao cấp CS bị CIA buộc gài bẩy Đs Đinh Bá Thi và con trai của một luật sư trong vụ gián điệp " . 4) Tháng 6. 1986 , hai tháng trước khi cha qua đời, Đặng Văn Khôi , sau nhiều lần vượt biên thất bại, đến định cư tại HK . Hiện sinh sống tại New York bằng nghề dạy guitar. 5 ) Tháng 4. 1986 , thôi việc với CIA, tác giả Yung Krall, với tư cách riêng, qua Bắc Kinh 2 tuần để viếng Hoàng Văn Hoan, bạn nối khố của Hồ Chí Minh , tị nạn tại Trung Hoa và bị Lê Duẫn xử tử hình khiếm diện. Yung Krall sẽ viết bài tường thuật vụ tiếp xúc hi hữu này. 6 ) Một sô tài liệu về vụ án Đinh Bá Thi - Trương Đình Hùng đến nay chưa được giải mật nên không thể ghi vào hồi ký Một Ngàn Gịot Lệ Rơi .

* * *

Hoa kỳ lập bang giao với Việt Nam là tạo cơ hội cho Hànội mở rộng lưới gián điệp tình báo tại Mỹ trong mọi lãnh vực : văn hóa, kinh tế và chính trị . Cách đây một năm, FBI đả phải lên tiếng báo động và kêu gọi cộng đồng Việt giúp tay chận đứng sự xâm nhập . Trên 3 thập niên chiến tranh , xã hội chủ nghĩa tại VN là chất bạch phiến đã ru ngủ và mê hoặc dân chúng nhẹ dạ. Lòng yêu nước thiết tha và mù quáng của họ bị lợi dụng bỉ ổi . Đối với nhiều lớp người, chủ thuyết Mác Lê là một tôn giáo trên mọi tín ngưỡng , luôn luôn chủ trương " tử vì đạo " , chà đạp lý trí và lô gíc . Chỉ thắc mắc mà thôi , đủ xem như phản bội . Con người CS quy hóa không khác đứa trẻ con bị đóng hộp, lớn lên và chết mòn giữa bốn bức tường thành khóa chặt . Lần hồi , trong tim phổi và linh hồn , Mác Lê đã thay thế tổ tiên và quê cha đất nước .

Ngày nay, xã hội chủ nghĩa chỉ còn là một lý thuyết rổng tuếch, mất hết hấp lực, hào khí và linh nghiệm. Nhóm cầm quyền tại Bắc bộ phủ bồn chôn và xuýt xoa tìm cách bôi đỏ dậm vá một món đồ cổ đã phai màu và tróc sơn . Tái xích hóa không phải là lối thoát khôn ngoan . Lối thoát là mở mắt nhận thức Dân chủ, Nhân quyền và Kinh tế thị trường đang tiến trong thế giới đổi khác hằng ngày. Sự thực - chỉ có sự thực ! - mới giải thoát . Vì ù lì lẩn tránh sự thực, CS không bao giờ tự giải thoát nổi . Cho đến ngày cuồng phong cách mạng giải thoát và đào thải chúng .

Đọc qua ba bài chỉ trích xã hội chủ nghĩa của Phan Đình Diệu, Trần Độ và Hoàng Hữu Nhơn sẽ thấy ngay những khác biệt giữa một chiến sĩ dân chủ, một thành viên CS hối cải và một cán bộ chưa gột sạch chất nhựa mạc xít .Điều đáng tiếc là trong cả ba , không một ai đặt thẳng vấn đề với Trung ương đảng bộ : tẩy khỏi Hiến pháp điều 4 đề cao độc quyền đàng trị . Chừng nào họ mới dám bước thêm bước quyết định này ?

Yeltsin , một cựu thành viên CS biết quá nhiều, đã khẳng định :" CS không bao giờ thay đổi . Chúng chỉ có thể bị thay thế " .Jean Francois Revel quả quyết dứt khoát hơn :" Cách duy nhứt để cải lương xã hội chủ nghĩa là xóa bỏ nó đi "5 .

Đặng Mỹ Dung - Yung Krall

Tôi chào đời trong khói lửa chiến tranh, anh chị em tôi lớn lên trong cái nôi của cách mạng. Những bàn tay kháng chiến đã ru ngủ, bao bọc chúng t
ôi cho đến lúc chúng tôi thành người.

Cha tôi là một nhà cách mạng, một người đàn ông lý tưởng, thơ mộng, yêu quê hương, yêu gia đình. Từ một thanh niên chống Pháp dành tự do độc lập cho nước nhà, ông trở thành một đảng viên cao cấp của đảng Cộng Sản Việt Nam, và giữ chức Đại Sứ của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam tại Liên Xô 7 năm ròng rã cho đến ngày miền Bắc thôn tính miền Nam.

Mẹ tôi là một người can đảm, chung thủy với gia đình và đất nước. Bà yêu chuộng tự do, tôn th
đạo làm người, như hàng triệu đàn bà Việt Nam thuần túy khác. Má tôi vừa làm mẹ vừa làm cha, nuôi một đàn con thơ trong suốt khoảng thời gian chiến tranh, từ trong bưng biền cho đến những năm khó khăn chốn thị thành.

Năm 1954 ba tôi quyết định tập kết ra Bắc. Tình nước đã nồng mà tình nhà cũng đậm nên ba tôi muốn đem cả vợ và 7 con ra Bắc. Năm đó má tôi 37 tuổi đời, không có một tuổi đảng nào, không một chức tước gì trong chánh phủ cách mạng. Nhưng má tôi đã hiểu rộng, đã biết nhìn xa mà lo sợ và chán ngán cuộc sống trong chế độ mà ba tôi đang thờ phượng. Má tôi can đảm từ chối lời mời của đảng và của chồng. Bà nói nh
với ba tôi: Con tôi còn nhỏ quá để tôi nuôi. Nếu để Bác Hồ của anh nuôi chúng nó sẽ hư hết. Ba tôi muốn chồng đâu vợ đó, muốn cho chúng tôi được đi học ở ngoài Bắc rồi có thể được du học bên Tàu bên Nga. Nghe nói vậy, má tôi còn sợ hơn nữa. Thế là ba tôi đành đi tập kết một mình và dắt người anh lớn của tôi theo và hứa sau hai năm sẽ trở về với gia đình sau cuộc tổng tuyển cử mà ông tin là cộng sản chắc chắn sẽ thắng.

Cuộc chia ly nào cũng đau buồn, cũng mất mát. Kể từ ngày ba tôi ra đi má tôi mất đi cái diễm phúc được làm vợ của một nhà cách mạng, của một người đàn ông đẹp trai, lãng mạn, yêu vợ thương con. Nhưng bù lại má tôi được tự do chọn lựa. Kết quả của sự lựa chọn đó là chúng tôi được sống ở miền Nam, được hít thở không khí tự do và hiểu được thế nào là dân chủ.

Ba tôi đi rồi má tôi rời khỏi bưng biền, trở về làng sống với cha mẹ. Lúc đó tôi mới có 9 tuổi, hai người chị lớn 16, em trai kế tôi 6 tuổi, em gái 3 tuổi và đứa em út vừa được 6 tháng.

Má tôi găp biết bao khó khăn trong đời sống cô đơn ở một hoàn cảnh nhi
u thử thách. Nào là một đàn con nhớ cha cứ hỏi Chừng nào ba về ? , nào là bị công an miền Nam theo dõi, điều tra về ông chồng tập kết của bà. Trong khi đó bọn Việt Cộng nằm vùng cũng thương gõ cửa sau kêu gọi đóng góp cho cách mạng

Là một người đàn bà có bản tánh thẳng thắn, dứt khoát, má tôi một mực trả lời với công an quốc gia rằng : Tôi lo may vá nuôi đám con nít phá gạo còn không nổi làm sao có thì giờ đi kiếm chồng tôi được. Khi phải giáp mặt với bọn Việt Cộng nằm vùng, má tôi thành thật nói :Ba của sắp nhỏ để lại sáu đứa con chỉ dặn mẹ con tôi ch
hai năm ổng về. Vì con còn nhỏ quá nên ổng không dặn tôi phải tham gia tổ chức nào, chỉ mong cho tôi mạnh giỏi nuôi con ăn học tới nơi tới chốn.

Lúc 10 hay 11 tuổi, tôi khám phá ra là tôi yêu thương cái làng của ông bà tôi ở. Thương con sông nhỏ, thương mảnh vườn cam, vườn quít, thương hàng dừa, thương ruộng lúa từ mùa khô cho đến mùa nước lũ Tôi cũng biết tình yêu đó sở dĩ mà có là nhớ được làm con của một người yêu nước và làm cháu của một gia đình nông dân chất phác. Bà ngoại tôi thương từ hột lúa giống, tới trái cam, cây quít trong vườn. Tôi nhớ lại những năm mà cách mạng lấy nhà, lấy đất của chủ điền cho những người đi theo cách mạng và gia đình họ trú ngụ, chủ điền bị đuổi ra khỏi nhà tạm thời. Tôi so sánh giữa đời sống trong vùng được gọi là giải phóng dưới chế độ của Hồ Chí Minh và đời sống của ông bà tôi ở một nơi mà cộng sản chưa tới được, tôi bỗng rùng mình vì không ngờ các cán bộ cách mạng lại hà hiếp người dân như vậy!

Tôi may mắn được lớn lên trong một đại gia đình mà vận nhà, vận nước gắn liền với đời sống của chúng tôi. Bà con họ hàng xa gần, phần đông là nông dân, thương đến nhà ông bà tôi để bàn luận về việc nước, chuyện thời sự, chuyện phân chia Bắc Nam. Người thì sợ lính của ông Hồ kẻ thì nghe ông ngoại tôi đọc nhựt trình rồi bàn chuyện nước non. Đặc biệt là dòng họ tôi không ai có ý nghĩ chánh phủ nào cũng vậy . Họ là những người thấu hiểu thời sự nhờ giao thiệp, gần gũi với ông ngoại tôi, với các cậu của tôi và với ba tôi.

Ai tin tưởng ở ông ngoại tôi thì chống cộng, ai ngưỡng mộ ba tôi và các cậu tôi thì một mực tin cộng sản dưới lốt Việt Minh là những người chống xăm lăng cứu nước.

Tôi nhớ năm 1955 hay 1956 gì đó, dân trong làng họp nhau ở nhà ông bà tôi chờ sao chổi mọc lên. Có người muốn cán chổi xoay về hướng Bắc để lính ông Hồ quét sạch miền Nam, Nhưng cũng có người lại mong cán chổi xoay về hướng Nam để đập tan Bắc Kỳ Hà Nội. Tôi không muốn ba tôi chết nếu người ta đập tan Bác Kỳ Hà Nội, chỉ muốn ông bỏ đảng về với gia đình thôi.

Không có cha, tôi quấn quýt bên ông ngoại. Có lần tôi hỏi ông sao ba tôi đi ra Bắc mà bè bạn đồng chí của ba không còn ai giúp đỡ chúng tôi như trước nữa ? Ông ngoại tôi nói họ cũng đã đi hết với ba tôi rồi. Có hơn 180,000 người tập kết ra bắc. Mấy ngày sau tôi hỏi ông là má không theo ba tập kết ra Bắc thì má có sai không ? Ông tôi khuyên Ráng siêng học lẹ lên để đọc nhựt trình mà biết thêm tin tức với người ta. Ngoài Bắc có 7, 8 trăm ngàn người di cư vô nam . Họ sợ cộng sản quá phải bỏ làng bỏ xóm ra đi thì má con ngu dại gì mà đi nạp mình cho thằng già Hồ?

Ông tôi rất trông việc học nên đã kèm cho một đàn cháu 15 đứa đi học. Ông khuyên chúng tôi phải chăm học và ngoan ngoãn để má tôi an tâm và sau này có thể giúp đỡ má. Ông tôi chỉ cấm chúng tôi có một điều là không được theo Việt Cộng. Chỉ có bọn tôi, con của má tôi, là không một ai theo Việt Cộng. Nhưng năm người chị, con của cậu tôi, đều nối gót cha chống Mỹ cứu nước.


Tôi sống trong một giai đoạn của lịch sử Việt Nam mà ngày hay đêm không phân biệt được, phải hay trái, trắng hay đen đêu mịt mù, không rõ ràng đối với tôi. Nhưng điều dễ nhận thấy nhứt trước mắt tôi là những cán bộ Việt Cộng nằm vùng đã có những hành động bạo ngược. Dù còn nhỏ tôi cũng hiểu rằng cái gì bạo ngược là phi nghĩa, là trái lòng dân, là nghịch ý trời.

Từ năm 1954 cho đến 1975, má tôi một lòng chung thủy ch
chồng dù suốt thi gian đó má tôi không được một lá thơ, một lời nhắn hay một bức hình nào của ba tôi. Nhưng bà vẫn tin là ông còn sống. Chúng tôi cũng muốn tin ba mình còn sống.

Tháng Tư năm 1975, chồng tôi về Việt Nam để tìm cách rước má tôi, mặc dầu lúc đó sĩ quan Mỹ không được vô Sài Gòn nếu không có sự vụ lịnh. Nhưng chồng tôi nói thà bị ra tòa án quân sự Mỹ còn hơn là để má và các em tôi ra tòa án nhân dân của cộng sản.

28 tháng Tư năm 1975 má tôi và hai đứa em rời Sài Gòn.
Trong một buổi sáng mặt trời chưa lên má tôi mất nước, mất dịp được gặp lại đứa con trai lớn theo cha đi tập kết. Bà không được đem theo hành lý chỉ có 1 cái valise nh
, trong đó má tôi gói ghém hết những kỷ niệm của đứa con trai tử nạn vì máy bay trực thăng.

Má tôi bỏ đi là một hình thức của cái thau nước tạt vào mặt đồng chí của ba tôi. Nhưng ba tôi kiên nhẫn, thông cảm và ước mong má tôi quay trở về Việt Nam với ông. Ba tôi yêu cầu vợ chồng tôi đưa má tôi qua Pháp để ông rước má tôi về Việt Nam sống với ông và anh cả của tôi.

Lúc đó tôi không biết có một phép lạ nào đã giúp tôi lo được giấy tờ đưa má tôi qua Pháp gặp ba tôi. Thời thế tạo anh hùng chớ tôi không biết hóa phép.

Chị em tôi không muốn má về Việt Nam mà chỉ muốn ba má được sống bên nhau trong những năm còn lại của hai người. Nhưng chúng tôi cùng đồng ý rằng để má tự quyết định. 21 năm về trước má đã tự quyết định cho dời má và quyết định cho chị em chúng tôi. Lúc đó má tôi mới có 37 tuổi. Tất cả trong tay má, tất cả trong tim má và bài học lịch sử của đất nước má đã thuộc lòng.

Phút giây tái ngộ của hai vợ chồng được kiểm soát bằng cặp mắt của tình báo cộng sản. Tôi muốn họ đi chỗ khác để ba má tôi tự do nói chuyện nhưng họ nói họ có bổn phận phải giữ an ninh cho hai ông bà.

Ông Đặng Quang Minh lúc trẻ

Sau hơn một tuần gặp nhau, tiếng khóc xen tiếng cười của cha mẹ tôi làm cho tôi tưởng tôi đang sống trong mơ hay lạc vào một thế giới thần tiên nào đó. Từ thơ mộng đến ác mộng chỉ xảy ra trong một thời gian ngắn. Khi má tôi đã sẵn sàng theo ba tôi về Việt Nam, bà bỗng nửa đùa nửa thật hỏi : Tôi về Sài Gòn mấy thằng cán ngố sẽ làm gì tôi, anh biết không?

Ba tôi chau mày nói : Sao em dùng những danh từ chữ không đẹp đẽ gì hết vậy?

Má tôi liền đáp :Trong Nam của tôi chỉ có những chữ đó để kêu họ thôi, tôi đâu biết tiếng gì khác hơn.

Suy nghĩ một lát ba tôi nhìn về phía thật xa rồi nói :Em về thì mấy anh sẽ mời em lên nói chuyện...Chắc là em sẽ phải đi học tập ít ngày.

Ông Đặng Quang Minh ở Phi Trường Liên Xô

Má tôi tỏ ý không bằng lòng nhìn thẳng vào mắt ba tôi, rồi hỏi :Tôi khôn hơn mấy thằng cán ngố của anh, lại không làm gì ác độc như anh Ba Duẫn của anh, thương nước thương nòi hơn cậu Hồ của anh, thì ai mà dạy tôi học với tập được? Mà tôi đâu có tội gì với Đảng với Bác của anh?

Ba tôi bụm miệng má tôi lại vì hai người đang ở trong villa của cộng sản, nơi mà Nguyễn thị Bình và Lê Ŀức Thọ đã từng ở trong thời gian hội nghị Ba Lê. Rồi ba tôi hạ giọng nói nhỏ :Em bỏ nước ra đi khi toàn dân chào mừng cách mạng, em còn để cho con lấy chồng Mỹ.

Ông Đặng Quang MInh ở Đại Hội Cộng Sản tại Liên Xô

Má tôi cười ngạo :Dạ thưa đồng chí, những người Mỹ nầy là cha của cháu ngoại đồng chí. Còn nói chào với đón...thì ai chào ai đón mấy ông rồi sẽ hối hận ê chề sau tuần trăng mật.

Thế là cuộc xum họp tan vỡ. Má tôi trở về Mỹ như một con chim đại bàng bị thương. Ba tôi về Sài Gòn như một hiệp sĩ thua trận.

Nhưng tình nghĩa giữa cha mẹ tôi vẫn nồng vẫn đậm. Kể từ đó ba tôi làm thơ lén gởi cho má tôi bằng cách nhờ những người tin cẩn chuyện đến tay má tôi. Trong khi đó, má tôi vẫn cố gắng bảo vệ tánh mạng của ba tôi bằng cách ngăn cản, năn nỉ tôi đừng chống cộng công khai. Biết tôi viết quyển A Thousand Tears Falling bà rất hãnh diện về công trình này của tôi, nhưng lại năn nỉ tôi đừng xuất bản khi ba tôi bà sòn sống.

Ba tôi qua đời vào mùa hè năm 1986. Tôi xuất bản A Thousand Tears Falling vào mùa Thu năm 1995.

Tiền nhân đã để lại cho chúng ta một kho tàng và kinh nghiệm. Lịch sử là những bộ sách học làm người cho nhân loại. Quá khứ vẫn sống trong tôi theo với nhịp sống hằng ngày của tôi. Đó là kinh nghiệm của một người Việt Nam từng trải qua những giai đoạn thê thảm. tàn khốc nhất của đất nước. Nhưng những tàn khốc, bạo lực ấy đã không giết được tôi. Trái lại nó đã tạo cho tôi một sức mạnh, một lý trí, một bài h
c có thể dùng làm kim chỉ nam để trở nên con người hữu dụng.

Tôi chỉ là một đàn em nhỏ bé của những ngư
i đi trước, lại có ngưi kêu tôi là thục nữ. Tôi đã ý thức được trách nhiệm của tôi là cùng với các bậc đàn anh cương quyết giữ cho ngọn lửa thiêng sáng mãi để khỏi phụ lòng những người đã ngã xuống cho tự do, cho quyền sống của con người. Tôi cũng có trách nhiệm nhắc nhở tất cả những người đã thành công, đã được hưởng tự do nơi hải ngoại đừng chà đạp lên giấc mơ Dân Chủ của dân Việt Nam đang sống trên giải đất phì nhiêu nhưng lại nghèo khổ nhất trên thế giới. Tiền tài, danh vọng ta đã có hết, có luôn cả tự do nữa. Bắt tay với cộng sản dưới chiêu bài hòa giải hòa hợp để làm ăn hay kiếm một chỗ ngồi trong tương lai chúng ta sẽ có thể bị con cháu chất vấn : Cha mẹ hay ông bà đã làm gì khi nước mất nhà tan? Cha me hay ông bà đã làm gì khi dân Việt Nam bị cộng sản áp bức, đày đọa ?

Gia tài để lại cho thế hệ sau không phải là những lời hay, l
i đẹp khắc trên mộ bia của ngưi quá cố mà là hành động của chúng ta lúc còn sống trong tự do.

Cá nhân tôi, vì tôi là người được hưởng tự do nên tôi không có những suy nghĩ của người phải sống trong gông cùm nô lệ. Tôi muốn tất cả mọi người phải được tự do như tôi.

Hãy yêu người như ta yêu ta, đó là lời dạy của một thiền sư . Nhưng xin nói ngay rằng thiền sư đó không phải là Thích Nhất Hạnh .

Đặng Mỹ Dung- Yung Krall


NGÀN GIỌT LỆ RƠI

30 tháng Tư - 31 năm sau Chuyện đời thành tiểu thuyết - Tiểu thuyết thành chuyện phim


Giao Chỉ - San Jose 2006

Lời nói đầu: Sau 30 năm cuộc chiến Nam Bắc Việt Nam đã có nhiều hoàn cảnh éo le trong cuộc sống. Cuộc binh đao giữa hai miền Nam Bắc, giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đưa đến cảnh gia đình chia cắt. Câu chuyện được ghi lại lần này là một nhà chia đôi ngả. Cha và con trai theo miền Bắc. Mẹ và 5 con theo miền Nam. Câu chuyện thật và đầy đủ tình tiết để dựng nên một cuốn phim làm di sản cho đời sau.

Phim ảnh Hoa Kỳ thường hay phỏng theo các cuốn tiểu thuyết hoặc ký sự dựa theo chuyện có thật đã xảy ra.

Nếu người Việt chúng ta làm một cuốn phim tại hải ngoại để có thị trường phải là phim nói Anh ngữ, có cái vai Mỹ ố Việt, tình tiết éo le, hấp dẫn, pha chút màu sắc điệp viên với các giây phút lo sợ kịch tính. Ðồng thời có những lúc vai chính phải ray rứt nội tâm. Màn ảnh chiếu gần, diễn tả bằng nét mặt.

Sự lựa chọn giữa lý tưởng và bổn phận của các vai chính làm cho chuyện phim đóng mở, lôi cuốn khán giả. Nội dung cần có cơ hội để lấy ngoại cảnh từ Việt Nam, Nhật Bản, Hạ Uy Di, Hoa kỳ và Âu châu.

Vai chính đi từ những phân cảnh của gia đình Việt Nam trong chiến tranh đến các buổi tiếp tân của ngoại giao đoàn tại các quốc gia Tây phương. Từ các phòng ăn tráng lệ tại các câu lạc bộ sĩ quan Hoa Kỳ cho đến các chiến khu ở rừng già Nam Bộ. Từ văn phòng của bộ ngoại giao chính phủ cộng sản Việt Nam đến cơ sở tình báo của Hải quân trong Ngũ Giác Ðài. Một chuyện phim như thế mà phỏng theo một câu chuyện hồi ký có thực thì vô cùng lý thú. Có thể tìm thấy không? Trên thực tế chuyện này đã xảy ra.

Chúng ta có thể tìm được câu chuyện tình tiết như vậy với nội dung bao gồm cuộc chiến Quốc Cộng giữa Việt Nam với Việt Nam. Giữa Việt Nam với Hoa Kỳ. Câu chuyện gián điệp thực sự xảy ra đã được kể trong cuốn hồi ký của một phụ nữ.

Người đàn bà viết cuốn sách này tên là Ðặng Mỹ Dung và cuốn sách này tựa đề là Ngàn Giọt Lệ Rơi. Nguyên tác Anh ngữ là A Thousand Tears Falling. Bà Yung Krall sáng tác theo thể tự truyện dựa vào cuộc đời của cha mẹ rồi đến chính cuộc đời của tác giả. Tất cả mọi danh tính đều giữ nguyên như là một sử liệu.

Dựa theo tác phẩm này, chúng tôi viết bản phác họa cho một cuốn phim tương lai của cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại.

Ðây là phim truyện về một người chủ gia đình theo kháng chiến rồi đi tập kết 54 trở thành nhân viên cao cấp trong chính phủ cộng sản. Người vợ ở lại miền Nam trong vùng quốc gia rồi di tản qua Hoa Kỳ. Bà đã từ chối không về sống với chồng ở Việt Nam. Sau khi đất nước thống nhất, con cái mỗi người theo một ngả.

Tiếp theo cuộc chiến Quốc Cộng tiếp tục bàn giao cho thế hệ thứ hai. Tác giả là con gái trong gia đình đã thành hôn với một sĩ quan hải quân Mỹ. Trong hoàn cảnh éo le, cô gái đã trở thành gián điệp nhị trùng. Một bên là cha ruột, một bên là chồng. Ðứng giữa hai phe thù nghịch nhưng tác giả thực sự làm việc cho phía Hoa Kỳ. Ðã góp phần phá vỡ âm mưu của Hà Nội cài người vào Bộ Ngoại Giao tại Hoa Thịnh Ðốn.

Chuyện thật đã xảy ra tại Mỹ vào cuối thập niên 70.

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, phe quốc gia và đồng minh Hoa Kỳ thường bị phía cộng sản cài người nằm thật sâu vào các cơ quan của ta nhưng phe ta chưa hề có được những đòn gián điệp đáng kể lừa được đối phương.

Câu chuyện Ngàn Giọt Lệ Rơi là một biệt lệ đặc biệt cần được biết đến, cần được nhắc lại và cần được đóng thành phim.

Cảm khích với nội dung của tác phẩm, chúng tôi xin giới thiệu với quý vị sau đây là câu chuyện về một cuốn phim tương lai, nhân dịp 31 năm sau kể từ tháng 4-1975.

* * *

PHÁC HỌA CHUYỆN PHIM “NGÀN GIỌT LỆ RƠI”

“A thousand Tears Falling” bắt đầu từ ngoại cảnh tại Nhật Bản. Thời gian lúc đó là tháng 6-1975, không gian là tại phòng tiếp tân của đại khách sạn Nhật Bản tại Ðông Kinh.




Hình bìa quyển truyện Ngàn Giọt Lệ Rơi

Tại đây, một hội nghị quốc tế với các nước Ðông Nam Á đang diễn ra. Ông Ðặng Văn Minh là trưởng phái đoàn của nước cộng sản Việt Nam vừa chiến thắng Sài Gòn 2 tháng trước, đến dự hội nghị với niềm tự hào và được sự lưu ý của báo chí thế giới.

Tuy nhiên, cũng vào chiều hôm đó tại Ðông Kinh, người cán bộ cao cấp của phe cộng sản gặp lại con gái sau 23 năm xa cách.

Từ hình ảnh trong đại sảnh của khách sạn quốc tế tại Tokyo, phía trước treo cờ các nước dự hội nghị có cờ đỏ sao vàng. Hình ảnh vị trưởng phái đoàn rạng rỡ tươi cười mở đầu cuốn phim để tiếp đến hình ảnh chiến khu với cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Ông Minh sinh năm 1909 tại Vĩnh Long, đi theo Kháng Chiến và trở thành nhân viên cao cấp của Mặt Trận. Năm 1954, ông dẫn con trai lớn là Ðặng Văn Khôi ra Bắc. Vợ ông Minh là bà Trần Thị Phàm và 5 con nhỏ ở lại miền Nam. Khi chia tay hẹn 2 năm trở lại nhưng thật sự phải hơn 20 năm sau người cộng sản mới vào được Sài Gòn thì lúc đó đã biết bao nhiêu vật đổi sao rời.

Người con trưởng theo bố ra Bắc đã trở thành sĩ quan ưu tú của quân đội nhân dân được gửi đi Nga học về hỏa tiễn phòng không năm 1968.

Ðến năm 1975, ông Minh trong khi vẫn một lòng trung thành với chế độ và trở nên cán bộ cao cấp ngành ngoại giao thì người con trưởng Ðặng Văn Khôi có thái độ chống chiến tranh nên đã bị sa thải khỏi quân đội miền Bắc.

Tại miền Nam, người con trai thứ của ông bà là Ðặng Hải Vân, lúc ông tập kết chỉ có 5 tuổi sau này đã trở thành phi công của Không Quân Cộng Hòa. Nhưng không may Hải Vân đã bị thiệt mạng trong một phi vụ bay huấn luyện tại Hoa Kỳ lúc 21 tuổi. Chị Ðặng Mỹ Dung là con thứ tư của ông bà đã thành hôn với đại úy phi công của Hải Quân Hoa Kỳ tại Sài Gòn và năm 75 gia đình sống tại Hawaii.

Cuộc sống thơ mộng và bình yên của ông Krall và bà Mỹ Dung hoàn toàn thay đổi từ tháng 4-1975.

Cũng vào tháng 4-1975, lúc đó cha của bà Dung là ông Minh đang làm đại sứ cộng sản Hà Nội tại Nga Xô, mẹ của bà và đứa em út thì kẹt ở Sài Gòn.

Với bao năm xa cách, với quan niệm về cuộc sống khác biệt, bà Phàm vợ ông Minh không hề có ý muốn ở lại Sài Gòn để chờ đoàn tụ với chồng. Ðặng Mỹ Dung liền yêu cầu thiếu tá Krall tìm cách về Sài Gòn đón gia đình bà qua Mỹ.

Khi ông Krall qua Sài Gòn đã lâu mà chưa có tin tức gì. Tại Hawaii, bà Ðặng Mỹ Dung lo sợ đã nói chuyện trực tiếp qua điện thoại cầu cứu với đề đốc Gaylor, tổng tư lệnh hạm đội Thái Bình Dương tại Trân Châu Cảng.

Lời nói chỉ vắn tắt báo cáo chuyện chồng bà về Sài Gòn để lo cứu gia đình sao chưa thấy qua, nhưng bà nói thêm một tin tức động trời bà là con gái của đại sứ cộng sản Việt Nam tại Mạc Tư Khoa.

Lập tức guồng máy quân báo của Hải Quân Hoa Kỳ chuyển động và cả FBI lẫn CIA nhập cuộc.

Hệ thống tình báo Mỹ ghi nhận ngay đây là một đầu mối vô cùng quan trọng mà tại sao lâu nay không ai biết. Ngay cả lúc hồ sơ thành hôn của vị sĩ quan Hải Quân Hoa Kỳ cũng không ai lưu ý đến mối liên hệ huyết tộc quan trọng của cô dâu nước Mỹ có đầu mối Hà Nội. Họ cứ tưởng đây là cô gái thuần túy Sài Gòn.

Tiếp theo khi chuyến bay chở mẹ và em gái út của Ðặng Mỹ Dung ra khỏi Việt Nam do CIA Sài Gòn trực tiếp sắp đặt thì một khế ước bất thành văn đã bắt đầu. Mỹ Dung nợ khối tình báo Mỹ một yêu cầu. Cuộc đời điệp viên khởi sự.

Khi bà Minh đã yên ổn tại Hoa Kỳ thì hơn 60 ngày sau Mỹ Dung dắt con nhỏ qua Nhật Bản thăm thân phụ đã hơn 20 năm xa cách. Guồng máy tình báo của thế giới tự do mở chiến dịch để Con Chim Xanh với Ngàn Giọt Lệ lên đường công tác.

Bây giờ xin mời khán giả trở lại Ðông Kinh của tháng 6-1976.

Cánh cửa phòng họp riêng của đại sảnh Tokyo hé mở, một cán bộ ngoại giao của Hà Nội bước vào trình với thủ trưởng Ðặng Quang Minh: “Thưa đồng chí thủ trưởng, bà Việt kiều ở Mỹ và đứa con lai đã có hẹn xin vào gặp.”

Ông Minh vẫn còn đang xem hồ sơ hội nghị, nói mà không nhìn lên: “Ðây là đại diện Hội Việt Kiều Yêu Nước đến để động viên và mừng đất nước thống nhất. Ðồng chí mời vào đi.”

Ðặng Lệ Dung bước vào cùng con gái nhỏ nép một bên.

Hơn 20 năm qua, lúc thân phụ ra đi, cô là đứa bé con. Giờ đây, đứa cháu ngoại lai Mỹ xinh đẹp của ông mắt mở to nhìn người đàn ông xa lạ mà e ngại.

Cuộc gặp gỡ riêng tư nhưng hết sức khách sáo. Cả cha con đều phải đóng kịch dù rằng trong lòng như lửa đốt.

Trước khi chia tay, ông Minh nói nhỏ với con gái là sẽ thu xếp để gặp lại người vợ cũ là bà Phàm đã hiện di tản qua Hoa Kỳ.

Sau cuộc gặp gỡ lần đầu tiên vào tháng 6-1975, cuộc đấu tranh chiến tranh chính trị, tình báo và ngoại giao giữa hai cha con bắt đầu. Một bên là Việt Nam cộng sản đã thống nhất và một bên là guồng máy tình báo Hoa Kỳ.

Cả hai bên đều tìm cách mua chuộc lẫn nhau. Cuốn phim Ngàn Giọt Lệ Rơi thực sự sẽ có cả hàng trăm phân cảnh hết sức độc đáo để dàn dựng.

Thủ trưởng Ðặng Quang Minh về báo cáo lên bộ chính trị và được đồng ý cho phép qua Paris gặp lại vợ con. Ông dự trù sẽ thuyết phục để đưa vợ con trở về Hà Nội dưới hình thức chiến thắng ngoại giao sau khi tuyên bố là gia đình ông ở Sài Gòn đã bị Hoa Kỳ áp đảo bắt phải di tản. Hà Nội chắc chắn một lần nữa sẽ đạt được một thành tích đánh bại Hoa Kỳ trên diễn đàn dư luận quốc tế.

Phía Hoa Kỳ, Hoa Thịnh Ðốn đã cho phép CIA giúp đỡ hai mẹ con bà Minh qua Pháp để bắt nhịp cầu làm việc trực tiếp với tòa đại sứ cộng sản Việt Nam tại Paris. Tình báo Mỹ chấp nhận nhập cuộc.

Tuy nhiên, cuộc đấu tranh chính trị giữa cộng sản và Hoa Kỳ đã trở thành một mối xung đột và mâu thuẫn trong nội bộ gia đình họ Ðặng, vượt ra khỏi tầm tay của những thế lực đằng sau từ cả hai bên.

Ông Minh hết lòng thuyết phục bà vợ tào khang trở về với một đất nước nay đã thanh bình, độc lập, thống nhất và hoàn toàn chiến thắng. Ông thề thốt lấy cả cuộc đời ra để bảo đảm cho sự an toàn của bà và người con út cùng đi với bà.

Nhưng bà Minh vẫn còn dè đặt và sau cùng quyết định ở lại Hoa Kỳ. Một quyết định sáng suốt mà ngày nay bà vẫn cho là hết sức may mắn.

Trong thời gian đó, phe cộng sản hết lòng chiều chuộng móc nối với Ðặng Mỹ Dung với hy vọng cô sẽ thuyết phục bà mẹ. Và hơn nữa, dù bà Minh chưa muốn về Hà Nội nhưng Mỹ Dung với ảnh hưởng sẵn có trong quân đội Mỹ, có thể dễ dàng trở thành một nguồn tin đáng giá và tốt nhất là chuyển hộ các tài liệu trên đường hàng không từ Hoa Thịnh Ðốn qua Paris.

Con Chim Xanh của Ngàn Giọt Lệ Rơi luôn luôn sẵn sàng hợp tác như là người cảm tình với phe chiến thắng mà thân phụ của cô cũng góp phần.

Dần dân Mỹ Dung gián tiếp trở thành một phụ nữ Việt Nam yêu nước kết hôn với người Mỹ những vẫn hồn nhiên đóng góp công tác cho chính phủ Hà Nội và các tổ chức thân Cộng.

Cũng vào thời điểm đó, sinh viên thân cộng Trương Ðình Hùng là con của luật sư Trương Ðình Dzu đang hoạt động cho tình báo cộng sản. Hùng du học Mỹ trước 1975 và tiếp tục ở lại Hoa Kỳ móc nối lấy tin tức từ Bộ Ngoại Giao. Hùng rất tin tưởng ở sự thân hữu chặt chẽ của Mỹ Dung với Hà Nội và tòa đại sứ cộng sản Việt Nam tại Pháp.

Ronald Humphrey là nhân viên cao cấp của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ được phép đọc tài liệu tối mật.

Lúc còn ở Việt Nam, Humphrey lấy cháu gái Võ Thị Ðịnh, một nữ cán bộ quân sự của Giải Phóng Miền Nam. Hà Nội đưa điều kiện nếu Ronald muốn cho phép đem vợ qua Mỹ phải lấy hồ sơ mật của Bộ Ngoại Giao Mỹ trao cho Trương Ðình Hùng.

Trương Ðình Hùng nhờ Ðặng Mỹ Dung chuyển tài liệu cho cộng sản qua tòa đại sứ Việt Nam tại Paris đưa tài liệu cho Việt cộng. Tài liệu Humphrey đưa ra qua tay Hùng đến Mỹ Dung thì CIA đổi thành tài liệu giả để chuyển qua Pháp.

Khi chính phủ Hoa Kỳ quyết định truy tố Trương Ðình Hùng và Humphrey thì cần có Mỹ Dung ra làm nhân chứng. Nếu như thế là cuộc đời gián điệp sẽ chấm dứt và đồng thời bà chấp nhận mọi rủi ro thách đố về sau.

Ðây là một quyết định khó khăn đối với một phụ nữ. Lần đưa mẹ ra khỏi Việt Nam, Mỹ Dung đã phải trả giá bằng cách bước vào con đường chông gai của nữ điệp viên. Lần này lại thêm một thử thách mới.

Sau cùng Mỹ Dung yêu cầu chính phủ Mỹ phải cam kết đưa cha và anh bà được vào Mỹ, trước khi phiên tòa bắt đầu.

Việc này sẽ được thu xếp trước khi vụ gián điệp tại Bộ Ngoại Giao được chuyển qua tòa án. Hồ sơ cam kết mật đưa lên tổng thống Carter xin chấp thuận. Guồng máy tình báo Hoa Kỳ lại mở chiến dịch mới.

Bà Mỹ Dung viết thư cho Lê Duẩn, tổng thư ký và Nguyễn Duy Trinh bộ trưởng ngoại giao Hà Nội xin cho cha là Ðăng Quang Minh qua London gặp gia đình vợ con vì bà Minh bị bệnh nan y có thể chết.

Ông Đặng Quang Minh ở đại hội đảng cao cấp bên Liên Xô

Giáng Sinh năm 1977, Hà Nội chấp thuận cho ông Minh xuất ngoại. Trong hai tuần lễ bên cha, cả hai chị em bà Mỹ Dung thuyết phục ông Minh đi Mỹ nhưng không thành công.

Cuộc tranh luận, phân giải trong gia tộc với nghĩa phu thê, và tình cha con của một gia đình Quốc Cộng đã kéo dài suốt mùa Giáng Sinh tại thủ đô sương mù London năm 1977.

Ông Minh đã dành cả cuộc đời đi theo con đường của ông, đêm nằm trằn trọc cùng phòng với đứa cháu ngoại thân yêu.

Bà Minh suốt thời gian nghe con gái và chồng tranh luận mệt nhoài nên đã nói những lời sau cùng trước khi chia tay đôi ngả. Bà yêu cầu chồng và các con từ nay chấm dứt tranh luận, cãi cọ qua lại về chính trị, về chủ thuyết, và tương lai. Hãy ngồi với nhau lần cuối trong tình huyết tộc rồi đường ai nấy đi.

Cuộc chia tay của hai phe đấu tranh chiến tranh chính trị trong một gia đình bây giờ chỉ còn toàn nước mắt của “Ngàn giọt lệ rơi.”

Sau cuộc họp mặt Giáng Sinh lịch sử 1977 của gia đình họ Ðặng, Hoa Kỳ quyết định đưa vụ án ra ánh sáng. Chính phủ Mỹ truy tố Trương Ðình Hùng và Ronald Humphrey mỗi người bị tù 15 năm. Cả hệ thống ngoại giao của cộng sản Hà Nội bị lung lay, rung động từ đại sứ Ðinh Bá Thi tại Liên Hiệp Quốc cho đến đại sứ Ðặng Văn Sung tại Paris.

Câu chuyện gián điệp nữ Ðặng Mỹ Dung được viết lại thành ký sự bằng Anh ngữ nhưng CIA đã yêu cầu bỏ đi gần 200 trang trước khi in. Một ngày nào đó bản Việt ngữ sẽ phát hành đầy đủ hơn để chúng ta biết rõ về một gia đình Quốc Cộng đã chia ly, đoàn tụ và vĩnh biệt ra sao.

Về sau ông Ðặng Quang Minh sống độc thân tại Hà Nội, thỉnh thoảng đi thăm mộ con trai là thiếu úy Ðặng Hải Vân của KQVNCH tại miền Nam. Ông mất năm 1986, hưởng thọ được 77 tuổi.

Ðặng Văn Khôi, người con trai lớn theo ông tập kết ra Bắc có đến chào cha trước khi vượt biên, hiện sống ở miền Ðông Hoa Kỳ. Từ một sĩ quan của đơn vị phòng không quân đội nhân dân đã du học bên Nga, nay ông trở thành người tỵ nạn tại Hoa Kỳ. Ông sống độc thân, năm nay 67 tuổi.

Bà Minh sống với vợ chồng Ðặng Mỹ Dung đã về hưu. Khi được tin chồng chết, bà không muốn về chịu tang dưới nghi lễ của đảng cộng sản. Một lòng kiên quyết, bà muốn để cho chồng đi trọn con đường ông lựa chọn.

Ông chết trong lòng đất quê hương, nơi có mộ phần của con trai ông là sĩ quan miền Nam. Bà Minh qua đời khi nước Mỹ bước vào thế kỷ thứ 21. Có thể ông bà đã cùng đứa con trai đoàn tụ ở một nơi không còn khác biệt về ý thức hệ.

Cuốn sách A Thousand Tears Falling hiện được một số giáo sư Hoa Kỳ dùng để dạy cho các trường trung học.
Còn cuốn phim A Thousand Tears Falling của Giao Chỉ thì đang dự thảo. Cũng mới chỉ là một ý kiến mà thôi. Chỉ sợ rằng để lâu quá thời gian sẽ làm cho nước mắt đã khô hết cả mất rồi. Nhưng dù lâu hay mau, câu chuyện Ngàn Giọt Lệ Rơi sẽ rất xứng đáng để quay thành phim. Và hàng triệu giọt nước mắt sẽ chan hòa rạp hát. Vì vậy chúng tôi xin kể lại chuyện này nhân ngày 30 tháng 4-2006, ba mươi mốt năm sau. Giao Chỉ - San Jose 2006

Xin liên lạc với chúng tôi tại địa chỉ:

IRCC, Inc. 420 Park Ave., San Jose, CA 95110.
Tel.: (408) 971. 7878 Fax: (408) 971. 7882. Email: amy@irccsj.com
Web-site: www.vietskyline.com or www.irccsj.com

Lời toà soạn: Cuộc chiến Bắc Nam kéo dài hơn 20 năm đã làm cho hầu hết những gia đình VN đều phải chịu cảnh con xa cha, vợ xa chồng, gây ra những mất mát quá lớn về cả vật chất lẫn tinh thần và sau cuộc chiến chấm dứt vẫn còn để lại biết bao vết thương, thù hận, lòng người chia cắt... kéo dài đến hôm nay.
Gia đình chị Đặng Mỹ Dung là một trường hợp khá tiêu biểu của những gia đình ở miền nam VN. Sau 1954, cha chị tập kết ra Bắc, còn chị em chị cùng mẹ ở lại trong Nam được nuôi dưỡng trong môi trường biết quý trọng giá trị của tự do và hiểu rõ bản chất của chủ nghĩa CS. Chị lập gia đình với một sĩ quan cao cấp người Mỹ và rời khỏi VN trước ngày mất nước. Sau 1975, cha chị là Đặng Quang Minh lúc đó là đại sứ của CSVN tại Moscow gặp lại gia đình lần đầu sau hơn 20 năm chia cắt tại Paris. CSVN nghĩ là có thể dùng lợi dụng chị qua tình cảm cha con để xây dựng một mạng lưới gián điệp tại Hoa Kỳ. Chị Đặng Mỹ Dung hành xử trong trong cương vị là một công dân Hoa Kỳ có trách nhiệm bảo vệ quê hương thứ hai. Chính chị đã giúp cơ quan tình báo Mỹ phá vỡ mạng lưới gián điệp của CSVN tại Mỹ.
Tất cả những chi tiết đó và cuộc đời của mình đều được chị kể lại trong cuốn tự truyện “Ngàn Giọt Lệ Rơi” sẽ xuất bản bằng tiếng Việt trong năm nay.

Nhân dịp chị Đặng Mỹ Dung qua Úc để thăm bạn bè và thăm lại những người từng là trẻ mồ côi trong Cô Nhi Viện Minh Trí tại Sàigòn trước đây và hiện đang sống tại Úc, Việt Luận có buổi tâm tình với chị hầu có thể giúp cho độc giả biết thêm về người phụ nữ bản lãnh này.


Chân Dung Đặng Mỹ Dung Điệp viên Nhị trùng CIA Mỹ

Việt Luận (VL): Tuổi thơ ấu của chị trải qua gần 10 năm trong mật khu chống Pháp, chị có thể nói thêm về tuổi thơ của mình được không?
Chị Đặng Mỹ Dung (ĐMD): Tôi sanh ra trong một gia đình đi làm cách mạng chống thực dân Pháp. Hai người anh và một người em trai của má tôi là bạn thân của ba tôi thuở còn đi học, gia đình bên nội các chú các bác đều là Việt Minh. Cuối năm 1939 đàn ông trong đại gia đình của chúng tôi bị Tây bắt đày ra Côn Đảo, đến năm 1945 cùng với muôn ngàn người tù khác ba tôi được trả tự do. Năm 1946 tôi ra đời tại tỉnh lỵ Cần Thơ nhưng chưa đầy một tuổi thì ba tôi dẫn vợ con vô vùng giải phóng.
Tôi rất thích khi VL hỏi đến tuổi thơ của tôi, bởi vì nó như một cuốn film trắng đen vẫn còn mới trong tâm khảm của tôi, nó vẫn còn linh động, vẫn còn âm thanh quen thuộc dù đã qua 50 năm rồi. Hình ảnh trong tuổi thơ của tôi là những năm tản cư, chạy giặc, bom đạn trên máy bay củaTây từ trên máy bay bắn xuống nhưng tôi nhớ hoài mỗi lần Tây bắn xong người trong làng xúm tìm nhau coi ai còn ai chết. Người sống tiếp tục đấu tranh không có ai bỏ cuộc. Được nuôi dưỡng trong cái nôi cách mạng, tiếng hát ru em là những chuỗi hùng ca nặng tình nhà, tình dân tộc. Gương sáng là những người yêu nước ở mọi từng lớp trong xã hội Việt Nam sánh vai nhau phục vụ cho một lý tưởng. Họ vào trong vùng giải phóng từ thành thị đến thôn quê, họ là những người dân cày, những anh nông dân, những thiếu nữ tóc còn xanh. Họ là những bác sĩ, kỹ sư, luật sư, giáo sư, thầy giáo. Có người du học bên Pháp vừa về tới Việt Nam là đi thẳng vô trong khu theo cách mạng, có người thoát ly gia đình bỏ lại mẹ già, cha bịnh mà đi theo cách mạng chống thực dân Pháp. Anh chị em chúng tôi là những người bạn tí hon của các anh các chị bộ đội và cán bộ, khi họ nhớ nhà, nhớ bữa cơm gia đình họ tìm đến với chúng tôi.
Tôi còn nhớ những buổi chiều vàng thật đẹp trên sông trước cửa nhà tôi, anh em tôi ngồi nghe má kể chuyện đời xưa, còn ba tôi thì chờ đêm tối không trăng kể chuyện ma.
Lúc tôi lên 9 tưổi, Việt Minh thắng trận, Tây về Tây. Đất nước thanh bình chỉ được một thời gian ngắn, nhưng hoà bình trong nhà tôi chỉ được có mấy tháng thôi vì ba tôi cho vợ con biết Hiệp Định Geneve đã ký, còn nhỏ quá tôi chỉ biết cái tên xa lạ đó nhưng không biết Geneve ở đâu, chỉ biết ở đó đã định đoạt cho cảnh phân ly của gia đình tôi. Ba tôi đi tập kết ra Bắc, má tôi và 6 chị em ở lại miền Nam.
Tôi may mắn được nuôi dưỡng trong cái nôi cách mạng để lớn lên tôi biết yêu nước, may mắn hơn nữa là được làm công dân ở miền Nam để tôi có tự do yêu nước với người dân. Nếu má tôi không can đảm nuôi con một mình thì chúng tôi sẽ thành những dụng cụ yêu nước cho CSVN rồi.
VL: Sau khi ba chị tập kết ra Bắc vào năm 1954 yếu tố nào đã nung đúc chị có một tinh thần chống cộng rõ ràng, chớ không giống như phần đông những gia đình có cha theo Cộng sản khác?
ĐMD: Má tôi làm vợ của một nhà cách mạng chống Pháp, dù chị không có gia nhập hội Phụ Nữ như những người vợ cách mạng khác nhưng má tôi sát cánh bên chồng, bên con cho nên má tôi hiểu khi Việt Minh ló đuôi Cộng Sản. Anh chị em chúng tôi lớn lên với thăng trầm của đất nước, qua tình yêu nước của ba tôi mà anh chị em chúng tôi biết yêu nước. Sau khi ba tôi đi tập kết chúng tôi tản cư về ở với ông ngoại chị ngoại, ông lại là người yêu nước thuần túy hơn, ông chống Cộng Sản, ông chống Hồ Chí Minh, nhưng ông yêu thương những người con, người rể của ông, nhờ ông ngoại cho tôi thấy phân biệt rõ ràng nầy mà tôi không đi lạc đường mà tôi vẫn không thấy mình tội lỗi khi tôi từ chối không nối gót ba tôi.
VL: Làm sao chị tạo được mối quan hệ với những nhân viên ngoại giao và gián điệp của CSVN sau năm 1975? Và chị có thể kể lại cho độc giả biết về vụ án Trương Đình Hùng có liên hệ trực tiếp đến chị?
ĐMD: Tháng 5 năm 1975, ba tôi trở về miền Nam trong chiến thắng của Hà Nội nhưng cá nhân của ông là chiến bại vì vợ con sợ Cộng sản quá nên đã bỏ chạy qua Mỹ trước đó 2 tuần. Trời thương gia đình tôi cho nên đưa đẩy cho ba má tôi gặp nhau trên nước Pháp do ông Lê Duẩn bạn chí thân của ba tôi đứng sau lưng giúp đỡ. Trong bộ Ngoại Giao của Hà Nội lúc đó ai cũng biết là ông Lê Duẩn tin tưởng ba tôi lắm. Được biết trong lịch sử của đảng Cộng Sản ba tôi là đảng viên lần đầu được nhà nước cho phép gặp vợ con ở nước ngoài, cho nên khi tôi gặp ba tôi ở Paris thì nhũng cán bộ của hai toà đại sứ Hà Nội và MTGPMN đều đón tiếp con gái của ba tôi một cách nồng nhiệt. Phải thành thật mà nói có những đồng chí của ba tôi cũng ở cùng hoàn cảnh xa vợ xa con suốt thời kỳ chiến tranh cho nên họ hết lòng giúp cho cuộc hội ngộ nầy trọn vẹn cho ba má tôi và tôi. Nhưng khi tới Paris, gặp một vài ông cán bộ tình báo thì mới biết họ đã làm “home work” kỹ càng về tôi, biết chồng tôi là sĩ quan tình báo của Hải Quân Mỹ làm việc tại Ngũ Giác Đài, là phi công của Hải Quân, họ muốn làm thân với tôi vì con mồi lớn kia cùng một lúc Hà Nội bắt đầu củng cố lại nội bộ của Việt Kiều Yêu Nước. Bất đắc dĩ tôi nhận lời làm tai mắt cho ông chủ tịch của Việt Kiều Yêu Nước, trụ sở tại Paris. Trùm gián điệp Cộng Sản Việt Nam cũng cho tôi công tác để móc nối với gián điệp của họ ở Mỹ.
Mọi liên hệ giữa tôi và cán bộ Cộng Sản Việt Nam tại Paris, Mỹ và các nước khác đều được báo cáo vói CIA trong những chuỗi báo cáo tôi trình lên cho sở nầy.
Nói tóm lại, nhân viên Bộ Ngoại Giao và gián điệp của CSVN lợi dụng con của ba tôi chớ tôi không có rình nhà họ trước.
Vụ án của Trương Đình Hùng đã có nhiều báo chí, sách vở nói đến, trong A Thousand Tears Falling tôi cũng có ghi chép lại những chi tiết từ ngày đầu tôi được tình báo CSVN giới thiệu tôi với Trương Đình Hùng cho đến ngày ông ấy bị FBI bắt.
VL: Xin lỗi cho hỏi một câu riêng tư: Sau khi giúp chính phủ Mỹ phá vỡ được mạn lưới gián điệp lớn CSVN tại Mỹ, thì mối liên hệ giữa chị và cha chị ra sao? Chị có bao giờ thuyết phục ba chị bỏ lý tưởng cộng sản?
ĐMD: Cộng sản chia đôi đất nước, làm cho con xa cha, vợ xa chồng chúng tôi không được lớn lên bên cạnh ba tôi, rồi khi ba tôi gìa yếu chúng tôi cũng không được chăm sóc ông, nhưng gia đình tôi được cái phước là dù xa nhau trên 20 năm nhưng chúng tôi thương yêu nhau, kính trọng nhau trong tinh thần của những người Việt Nam yêu nước. Một khi anh yêu nước thật sự, hành động và việc làm của anh nói lên tình yêu đó. Ba tôi biết tôi yêu nước, ba tôi biết tôi không chấp nhận sự có mặt của Cộng Sản tại miền nam Việt Nam. Chúng tôi vẫn yêu thương kính trọng nhau sau khi biết tôi giúp cơ quan tình báo Mỹ phá vỡ mạng lưới gián điệp của CSVN tại Mỹ.
Sau 30 tháng 4 năm 75 tôi được gặp ba tôi ba lần, lần nào tôi cũng nói khéo khuyên ba tôi hưu trí tìm một quốc gia nào khác ở dưỡng gìa với má tôi, dĩ nhiên không phải là tỵ nạn Cộng Sản ở nước Mỹ. Ba lần tôi mời ba tôi ở lại, ba lần tôi làm cho ba tôi thất vọng vô cùng vì ba tôi cho đó là một ý nghĩ vô cùng ích kỷ. Ông muốn tiếp tục phục vụ đất nước và dân tộc dù biết Đảng của ông đã phản bội ông rồi.
Tình cha con của chúng tôi không sứt mẻ, chỉ buồn cho gia đình tôi là ngày ba tôi qua đời CSVN không cho chúng tôi về dự đám tang. Gia đình bên ngoại “đánh dây thép” cho chúng tôi biết tin ba tôi qua đời.
VL: Yếu tố nào đã thúc đẩy chị viết tác phẩm “Ngàn Giọt Lệ Rơi”?
ĐMD: Câu chuyện của những người đi tập kết đâu có giấy mực nào ghi chép hết. Phần tôi, tôi viết để thế hệ con cháu của tôi nó biết gia đình Việt Nam của nó, hy vọng như vậy. Tôi viết để ghi ơn ông chị cha mẹ anh chị em của tôi và những người đi qua trong đời tôi đã giúp cho tôi thành người. Trăm ngàn gia đình có thân nhân đi tập kết cũng muốn kể lại khoảng đời nầy của họ, nhưng phần đông không viết được vì họ đang ở tại Việt Nam, có những người sống ở hải ngoại nhưng họ không dám ra mặt sợ thân nhân của họ bị phiền phức với nhà nước ở Việt Nam. Lần cuối cùng gặp ba tôi ở Luân Đôn, tôi có cho ba tôi biết là mấy chục năm qua tôi viết nhựt ký, ba tôi có vẻ ưu tư rồi khuyên tôi nên viết thành sách cho con cháu trong gia đình biết về tổ tiên ông chị của chúng nó. Tôi nhớ hoài câu nói ngắn ngủi nhưng thành thật vô cùng của một đảng viên Cộng Sản: “Con viết dùm cho ba, hoàn cảnh chưa cho phép những người như ba viết hồi ký, chỉ có chánh phủ mới được viết hồi ký thôi con à.”
VL: Được biết chị đang dịch tác phẩm này sang tiếng Việt, xin chị cho biết khi nào thì hoàn thành?
ĐMD: Tôi cám ơn chồng con, bè bạn và VL đã hỏi thăm tới đứa con tinh thần của tôi. Cho phép tôi trả lời rất dài dòng để tất cả biết tại sao 10 năm sau khi bản Anh ngữ A Thousand Tears Falling xuất bản rồi mà tôi chưa hoàn thành bản Việt ngữ.
VL: là người thứ mấy chục hỏi tôi câu nầy, nhưng VL là người đầu tiên tôi trả lời rõ ràng. Vợ chồng tôi chỉ có một đứa con, nó lớn nhanh quá làm cho tôi luống cuống, viết lại quyển sách nầy bằng Việt ngữ cũng gần giống như nhìn con tôi trưởng thành, đủ lông đủ cánh nó bay đi. Nó là một đứa con tuyệt vời của vợ chồng tôi, khi nó trưởng thành nó có bổn phận với đời, với xã hội của nó. Cũng như con của tôi, cuốn sách nầy sẽ được vô nhà in, được đến tới tay của đọc giả xa gần, cho tôi bồng bế nó cho đến cuối năm nay. VL: Trong đời chị, chị đã làm được nhiều “chuyện lớn”, nhưng điều gì làm chị hãnh diện nhất và chị có điều gì hối tiếc không?
ĐMD: Chuyện lớn nhứt là có con, thương con và được nó thương lại. Điều tôi mong ước thầm kín nhứt nhưng ít khi nào nhắc đến trước công chúng đó là được cùng với ba tôi viết một quyển sách. Thôi thì kiếp sau vậy.
Việt Luận

Hãy liên lạc với chúng tôi, mọi bài vở đóng góp xin vui lòng gởi về NguoiVietTuDoRg@Yahoo.Com hoặc liên hệ bằng điện thoại Mobil :

01577. 77 22 459 . Chúng tôi luôn hân hạnh được phục vụ quý vị.

Xin quý vị vui lòng Klick vào Link sau đây để mở sang trang chủ:

www.TrangChuRgBg.Blogspot.Com